MAI THẢO (1927-1998)
- ductungducnguyen
- Mar 31
- 32 min read



của nền VĂN CHƯƠNG TIẾNG VIỆT HẢI NGOẠI
về mục "SỔ TAY" trên "báo VĂN của MAI THẢO"
......
Lê Thị Huệ: Tờ Văn hải ngoại trong mười bảy năm nhà thơ Mai Thảo đảm nhận (1982-1997) có trang Sổ Tay được bạn đọc Văn yêu thích nhất.
Thường được gọi là “Sổ Tay Mai Thảo”. Đều đặn một năm 12 tháng, tháng nào ông cũng gửi đến độc giả thân mến của Văn một bài Sổ Tay. Với một giọng văn bay bướm ngắt câu lãng mạn kiểu Mai Thảo, mục Sổ Tay điểm mặt những bạn bè và những sinh hoạt văn chương văn nghệ xảy ra quanh thời đại ông. Qua trang Sổ Tay, người đọc khó tính của Văn tìm thấy ở chủ bút Mai Thảo một trình độ quốc tế, đọc được ngoại ngữ, tiêu hóa kiến thức thế giới, tương đối ít vọng ngoại thờ ngoại qúa độ, như độc giả khó tính vẫn thường thấy ở nhiều nhà trí thức dù sống nơi đâu nhưng vẫn cứ mang tâm thức các xứ nhược tiểu. (Lê Thị Huệ chủ biên trang Gió O www. gio-o .com )
(chân dung MAI THẢO của nhiếp ảnh gia Nguyễn Bá Khanh
ký ảnh của Nguyễn Thảo
bìa báo VĂN Số 28 –tháng 10 1984)
SỔ TAY MAI THẢO
về VĂN CHƯƠNG PHÁI NỮ (ở Hải Ngoại)
Nhìn trở lại tiến trình văn học ta từ 40 năm trở lại đây (30 năm quê nhà, trong chiến tranh, 10 năm quê người, trong lưu đầy xa nước) hiện tượng đáng ghi nhận nhất trước sau vẫn là thơ văn phái nữ.
Trong cùng một thời kỳ, và điều này chưa từng thấy trong văn học quá khứ, thật nhiều tài thơ tài văn nữ đã đồng loạt xuất hiện và giòng văn chương nữ lưu lớn mạnh mau chóng và ào ạt chảy xiết cạnh giòng văn chương nam giới, đã mở hẳn một bờ cõi mới trong cõi bờ văn học Việt Nam. Bờ cõi ấy rực rỡ tươi tốt nhất trên hai địa hạt thi ca và tiểu thuyết.
Nhìn từ lăng kính xã hội học, bằng giải thích hiện tượng qua mối tương quan trở thành chặt chẽ giữa hiện tượng với tình huống xã hội ở cùng một thời, ta có thể nhận định về một triều bát ngát hiện giờ của văn chương nữ phái như một tất yếu, không thể không tới, không thể không có. Xã hội đã thay đổi. Những giới hạn bao đời cầm giữ nữ giới trong vai trò lệ thuộc và thứ yếu không còn nữa, những giới hạn ấy đã bị phá vỡ, tiến trình biện chứng của nữ giới do đó là một tiến trình giải phóng, nữ giới từ một bình diện thấp đã lên bằng tầm nam giới. Trên mọi phương diện của đời sống, trong đó có sự bằng tầm của văn học, văn chương.
Nhưng chỉ từ một giải thích xã hội học không thôi, giải thích ấy lại không đầy đủ và cái bởi đâu và cái tại sao của nó sẽ không được chiếu sáng một cách tận cùng. Bởi vì ở văn chương là tài năng, trước hết là tài năng, sau trước chỉ là tài năng và tài năng thường là những tự thành cá nhân trong cô đơn một đời và ở ngoài mọi quy luật xã hội.
Nhìn vào giòng văn chương nữ phái vỡ bờ từ bốn mươi năm trở lại đây, tôi chỉ thấy cái điểm nổi bật ấy là tài năng. Mỗi tài năng là một vì sao lấp lánh giữa bầu trời, tạo riêng cho nó, lấp lánh một bầu trời. Và bốn mươi năm văn học ta đã được đánh dấu bằng một cuộc hội ngộ lạ lùng của giòng văn chương nữ phái. Không chỉ lác đác đây đó một vài tài năng. Mà nữ phái, cùng một thời kỳ văn học, đã đồng loạt thật nhiều tài năng. Họ cùng gặp nhau, cùng sáng rỡ, cùng lên đường, chân chị chân em đông đảo, trùng trùng, tạo thành một bầu trời văn chương mới, bầu trời văn chương nữ giới, đầy tinh tú.
Bốn mươi năm. Ta đã có Linh Bảo, Nguyễn Thị Vinh, Minh Đức Hoài Trinh, từ thềm Tự Lực Văn Đoàn vào đời, rồi vượt khỏi Tự Lực, vượt khỏi tiền chiến, trở thành từng cõi viết độc lập. Bốn mươi năm. Ta có Nhã Ca, Nguyễn thị Hoàng, Nguyễn thị thụy Vũ, Lệ Hằng, Trùng Dương, nhưng người viết nữ lỗi lạc, về hai thể truyện ngắn và truyện dài, suốt mấy thập niên làm gió làm mưa trong địa hạt tiểu thuyết, mỗi người có hàng chục tác phẩm dẫn đầu về số bán trong địa hạt tiểu thuyết. Lãnh vực thi ca, nữ phái cũng là cả một thi đàn. Với Tuệ Mai, Vi Khuê, Hoàng Hương Trang, với Tuệ Nga, Quỳ Hương, Hương Khuê, những nhà thơ nữ này không chỉ một vài bài thơ, không chỉ những cõi thơ giữa chừng, mà thơ là tiếng nói, là đời sống, là thân thế.
Giòng văn nữ phái ấy, đứt đoạn từ trong nước với biến cố 1975, đã lập tức mở được những cõi bờ mới giữa bờ cõi văn chương hải ngoại, với cả một lớp người viết nữ mới, sáng láng, linh động, phần lớn đều còn rất trẻ, không ở trong một tầm ảnh hưởng nào, ít tham gia sinh hoạt, chỉ viết từ những bàn viết biệt lập, do đó là những vùng ngôn từ rất tươi mát, rất riêng tư. Đó là cái vốn mới của văn học ta, một mặt. Và một mặt là sự nối tiếp xuất sắc, phong phú của giòng văn chương nữ phái bốn mươi năm phong phú, xuất sắc. Đó là Lê Thị Huệ (mới có tác phẩm đầu mùa hè này), là Trần Diệu Hằng, Nguyễn Thị Ngọc Liên, Nguyễn Thị Bạch Yến, Hân, Đào Thị Ngọc Nam, Trần Mộng Tú, Hoàng Dung ở California, Trần Lai Hồng ở Washington, Phạm Thị Ngọc ở Louisiana, Huyền Châu ở Paris, hết thảy như lớp đàn chị ở quê nhà cùng đặt biệt xuất sắc trên hai địa hạt thi ca và tiểu thuyết. Ngoài nước. Lớp người viết nữ mới. Những thí nghiệm. Những khởi đầu. Những con đường chỉ mới nở ra, năm trước, năm nay, những cái đích chưa tới, chưa phải là tác giả, chưa có những thành tựu. Nhưng triển vọng thì đích thực đã là những triển vọng. Của giòng văn chương nữ phái đã rực rỡ ở quê nhà, đang rực rỡ dần, trên quê người.
Trong phạm vi hữu hạn của một số báo, phần đặt biệt về thơ văn phái nữ ở 60 trang sau đây đã không thể có chỗ cho những biên khảo tường tận về chủ đề,về hiện tượng. Qua tất cả những sắc thái, những đặc thù làm nên cái thế giới văn chương muôn hình nghìn vẻ của nữ giới Việt Nam từ bốn mươi năm trở lại đây. Văn sẽ trở lại với chủ đề mới chỉ đề cập tới một cách tổng quát ở số này trong nhiều số đặc biệt sắp tới, vẫn về giòng thơ văn nữ phái. Kỳ này, chúng tôi chỉ muốn giới thiệu và mời bạn đọc thưởng thức một số truyện ngắn và thơ của một số nhà văn nhà thơ nữ mà Văn đang có những sáng tác của họ trong tay. Bắt đầu là truyện ngắn của Nhã Ca, nữ tiểu thuyết gia Việt Nam đứng đầu về số tác phẩm đã xuất bản, ngót 40 cuốn. Kế đó, một truyện ngắn của Lê Thị Huệ trong tuyển tập truyện ngắn Bụi Hồng vừa xuất bản, một truyện ngắn của Trần Diệu Hằng đang sáng tác rất nhiều thời gian gần đây, một truyện ngắn của Phạm thị Ngọc đã có truyện Nỗi Buồn rất được khen ngợi ở một số Văn trước, một truyện ngắn của Nguyễn thị ngọc Nhung đã có mặt nhiều lần trên diễn đàn này. Về thơ, là thơ Hương Khuê, Trần mộng Tú, Vi Khuê, Tuệ Nga và Trương anh Thụy, hai người sau đều có thi phẩm mới xuất bản ở Hoa Kỳ.
Mai Thảo
(trích báo VĂN Số 28 –tháng 10 1984)
===================
Sổ Tay Mai Thảo
Văn số 65 thang 11.1987
Sổ tay tháng mười
Tháng mười. Ở quên nhà xa thẳm, những cánh rừng Tây Nguyên đã tối sớm. Vừa chớm tà dương, những sối Đà Lạt đã khép mắt, và tiếng chuông thu không của Vĩnh Nghiêm, của Linh Mụ, của Diệu Để chưa điểm, Sài Gòn đã lên đèn, sông Hương đã thẩm mầu, lăng tẩm đã hoàng hôn. Tháng trước còn tỏa đi một ngàn cái nan quạt rực rỡ làm thành tà áo nắng mặc xanh sắc da trời, tháng này ông mặt trời thu dần lại những nan quạt, ông mặt trời khởi sự hà tiện ánh sang. Khiến đêm tháng mười dài them một trống canh nữa. Khiến ngày tháng mười chậm lại những bình minh. Ánh sang. Bóng Tối. Thế kye3 tranh tối tranh sang. Nhật thực giữa buổi trưa. Nguyệt thực đúng đêm rằm. Bóng tối. Ánh sang. Tự nghìn cổ tới giờ, cuộc vận động vĩ đại nhất của loài người vẫn chỉ là mở đường từ nghững thung lũng bong tối đi ra những đồng bằng ánh sang, và những thế lực phản phúc thì là vận động ngược chiều, những thế chế chuyên chính, độc tài, phát xít đều tước đoạt đi con người ánh sang, đẩy xếp vào địa ngục tối đen. Ánh sang. Bóng tối. Ánh sáng ở đâu? Ánh sáng nào còn chiều trên Việt Nam đêm dài? Chỉ còn bong tối trước cửa chợ Bến Thành, ở Ngã Năm Bình Hòa, ở Ngã Bãy Chợ Lớn, từ tám giờ sáng. Chỉ có bong tối trên Quốc Lộ Một, trên Vàm Cỏ Đông, trên bắc Tân Thuận nhá nhem anh đi xuống miền Tây tìm đường ra biển, dưới những tang đại thụ ở Suối Máu, ở Xuyên Mộc, ở Pleiku đã 12 năm những tù nhân của chế độ bóng tối vẫn chưa được trở về. Ánh sáng. Bóng tối. Cái thước đo hào quang ngắn lại. Đêm tháng năm chưa nằm đã dạy, ngày tháng mười chưa cười đã tối. Còn có ngày ư? Bây giờ trên đất nước? Không, chỉ có sự đàn áp, cùm xích là thủ hạ của bóng tối. chỉ có sự cơ cực là đồng lã của bóng tối. Chỉ có sự nô lệ là thừa sai của bóng tối. Chỉ một bầy qua cú vô thần tanh hôi là con để của bóng tối, chúng đang cướp đi của giống nòi những trời biết, chúng đang giết đi ở từng người những ban mai. Thế nên, ngày tháng mười bảo là đang ngắn lại, cũng chẳng là đúng. Ngày ở Việt Nam đâu còn. Thế nên ngày tháng mười nói là hoàng hôn giăng lưới sớm. Cũng là sai. Làm gì còn giăng lưới, làm gì còn hoàng hôn. Chỉ còn bóng tối. Với từng kiếp người. Dưới từng mái nhà. Và như thế đã nhạt nhòa, đã đằng đẵng mười hai năm Việt Nam không ánh sáng.
Gió tháng mười thôi về từ Úc Châu. Từ thủ đô Canberra. Quan Tân Tây Lan, từ cực Nam Thái Bình Dương thổi tới, ngọn gió chở theo hình ảnh của người viết văn Việt Nam bất khuất. Chở theo nữa, thái độ thân thiện của một chính phủ từng đã gửi quân tình nguyện sanh giúp miền Nam trong cuộc chiến, vừa can thiệp hữu hiệu cho nhà văn bất khuất tôi vừa nói tới, vẫn bị cầm tù ở quê nhà. Thủ tướng Úc đã gửi văn thư chính thức cho Hà Nội. Đang muôn gia hảo với Úc, Hà Nội một lần nữa phải nhượng bộ. Bằng đình lại vụ xử Doãn Quốc Sỹ, vô thời hạnh. Vụ án Doãn Quốc Sỹ và văn thư can thiệp của thủ tướng Úc cho thấy hai điều. Cùng thật đẹp. Một là thái độ phản chống chuyên chính của Doãn Quốc Sỹ đã trỡ thành biểu tượng. Hai lần bị cầm tù là con số thành của một đương đầu triệt để, nó không chỉ làm rạng ngời cái nhân cách nhà văn vô úy ở Doãn Quốc Sỹ, nó còn làm sáng chói cái tinh thần chống đối của toàn thể dân chúng miền Nam mà Doãn Quốc Sỹ là biểu tượng hào hung và uy nghi nhất. Hai là sự can thiệp tích cực của một chính phủ bạn, thật đáng vỗ tay, thật đáng biết ơn. Vụ Nguyễn Chí Thiện, vụ Phan Nhật Nam đã nhận được nhiều can thiệp quý báu của một số quốc gia Tây Phương. Như Pháp, như Thụy Điển. Nhưng chỉ từ phía những tổ chức nhân quyền. Một thủ tướng đương nhiện đích thân can thiệp, đặt vấn đề can thiệp vào một bình diện khác hẳn. Và điểm này ta mới chỉ thấy có một thủ tướng Úc. Do vậy, sự can thiệp cũng bội phần hữu hiệu. Sao vậy? vì là kẻ thù mặt dầy mày dạn bất chấp dư luận lên án, thế giới kết tội. Nhưng nó lại rất nể vì chính phủ một quốc gia nào nó đang muốn cầu thân và giao hảo. Như trường hợp của Hà Nội với Úc Châu hiện giờ.
Không ngờ với tháng mười: động đất. Anh Vũ Quang Ninh tiện đường tới sở, chở tôi đi Los. Tám giờ sáng. Buổi sáng mờ hơi sương Ngã tư Magnolia – Cerritos. Đèn đỏ. Bỗng chiếc xe hơi của người trưởng đài Tiếng Vọng Quê Hương run lên bần bật, chao đi chao lại. Như mặt đường dưới nó là một mặt hồ lặng im thình lình nổi sóng vậy. Khiến người thuyền nhân vượt biển ở tôi cũng thình lình sống lại với sự nghiêng chao dữ dội cũa con tầu đánh cá chỡ mình vượt biển Đông lúc gặp bão cấp năm đầu vịnh Thái Lan 10 năm trước đây. Mấy dãy xe Mỹ xunh quanh cùng nhốn nháo. Họ mở hết cửa xe ra cùng ngó xuống. Thì ra động đất. Thì ra rất đông. Thì ra lòng đất làm dữ, ruột đất lên cơn. Thì ra mối nguy cơ hãi hùng cho mấy chục triệu người California các nhà địa chất học đã báo động nhiều lần, mối nguy cơ ấy là một nguy cơ thật sự. Đất yên. Tiếp tục lên đường đi Los, tôi nghĩ nhiều nhất đển triết gia Phạm Công Thiện. Mấy tháng nay, triết gia biến đâu mất, không thấy ở hàng quán trong vùng. Hay ý Thức Bùng Vỡ, hay Ngày Sinh Của Rắn nhập thất lại? Năm Ngoái nghông nghênh họ phạm ra tờ Động Đất ào ào viết văn, làm thơ động đất theo. Có điều là động đất nơ rốn đất triết học yếu. Chỉ rung chuyển được một hai số rồi ngừng. Và Phạm Công Thiện lại trở về với những bài thơ tình dịu dàng. Kiều:
Yêu em nhỏ nhẹ sầu năm tháng
Mây hải hồ bay trắng tháng này
Để biển được yên. Đẻ trời được lặng. Để Thăng Long Văn Sỹ Vũ Huy Quang tháng này vẫn được có truyện dịch quốc tế. Để nhạc sỹ Phạm Duy tháng này vẫn được có mặt trong đêm tôn vinh 50 năm câm nhạc Phạm Duy ở Thung Lũng Hoa Vàng. Để tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng vẫn ra được hồi ký Hồ Sơ Mật Dinh Độc Lập đã phát hành bản dịch Việt Ngữ rất tươm tất của Cung Tiến và Nguyễn Cao Đàm. Để người ảnh Trần Cao Lĩnh được yên ổn trờ về sau chuyến đi Úc Châu giới thiệu với đồng bào Melbourne va Sidney về hình ảnh quê hương của ba miền hoa gấm.
Mùng 3 tháng 10. Một cái tang lớn của văn chương Pháp: kịch tác gia danh tiếng Jean Anouilh, 77 tuổi, từ trần ở một bệnh viện Thụy Sĩ vì chứng đau tim. Khá xa lạ với người đọc Việt Nam. Chưa có một kịch phẩm nào của ông được dịch sang Việt Ngữ. Jean Anouilh ngự trị suốt 50 năm trên tiến trường sân khấu Pháp như nhà soạn kịch tài năng và được kính trọng nhất của một thời. Năm 19 tuổi, ông viết vở kịch đầu tiên Le Bal Des Voleurs. Nổi tiếng sau đó từ vở Le Voyaeur Sans Bagages diễn liền một hơi 200 xuất ở hý viện Mathurins, xuất nào cũng không có ghế trống. Làm chủ một nghệ thuật viết kịch và dựng kịch dễ dàng, nghệ thuật chỉ thấy ở một bực thầy, một thiên tài, Anouilh đã có một số lượng trước tác vĩ đại và tác phẩm nào của ông cũng được những đoàn kịch danh tiếng nhất đưa lên sân khấu, cũng được dịch ra nhiều thứ tiếng. Được tán thưởng nhiệt liệt vì một ngôn ngữ kịch lạnh lùng, cay độc, chát chúa, Anouilh ngoài đời là một hình ảnh trái ngược hẳn. Ông từ tốn, dịu dàng và từ chối hết thảy mọi vinh quang, như đã từ chối không vào Hàn Lâm Viện Pháp. Một đoạn trong điện tín phân ưu của tổng trưởng văn hóa Pháp, Francois Leotard gửi cho bà quả phụ Anouilh:” Ông nhà đã gia nhập vào vùng xâu xa nhất của truyền thống kịch nghệ Pháp, như Molière, như Marivaux. Qua những vở kịch đen và hồng của mình, Jean Anouilh đã chinh phục và chiếm đoạt được cảm tình của một quần chúng lớn lao mà Anouilh biết kính trọng. Một hiệu năng ngoại hạng về những tình huống kịch và những đối thoại kịch, một quán triệt hoàn toàn về kịch nghệ, tác giả của những kiệt tác L’Alouette, Antigone, Beckett, đã phục vụ nghệ thuật ông và những diễn viên hàng đầu của sân khấu Pháp trong suốt 40 năm trở lại đây với một tài năng và một sự phong phú không người nào sánh kịp.”
Trời trở lạnh. Câu văn mở đầu kiệt tác Đôi Bạn của Nhất Linh. Cũng là câu văn khí tượng cho thời tiết tháng này ở thành phố Westminster nơi tôi đang sống. Trời thấp, xám, không nắng. Lộng gió. Những hàng cây dọc đường Bolsa tôi ra khỏi buổi sáng đã có cái dáng cây mùa lạnh rét mướt. Những ngọn điện phố trên con đường Brookhurst buổi chiều tôi từ Los Angeles trở về, đã có cái vẻ lung lung của ánh sáng bị vây bọc bởi mù sương. Thời tiết thay đổi, từ nồng nực tới lạnh mát, làm cho mọi ẩm thực cũng có một hương vị mới. Tô phở sớm, cái tô phở Bắc được ca ngợi hết lời trong tùy bút Nguyễn Tuân, trong Hà Nội Băm Sáu Phố Phường của Thạch Lam, tháng này ăn mới thấy hết cái ngon.Tối qua, đi cùng đảng Trọng Viễn tới nhà Du Miên nhậu nhẹt, chất Cordon Bleu chảy vào cơ thể, thấy được trọn vẹn sự ấm áp dễ chịu trước buổi chiều đã tới sớm, đã gió lạnh ở ngoài vườn. Buổi trưa, Hoài Bắc tới. Buổi trưa, không nắng. Mặc một cái áo ấm. Pha trà. Cùng uống với bạn. Nói chuyện về những mùa lạnh cùng đã trải qua trong đời, thấy hiện lên với tháng mười hình ảnh những bờ đê heo hút, những ao sen tàn tạ, những lũy tre xào xạc, những cánh đồng mưa bay ở Việt Nam xa. Thấy hiện về những mùa lạnh năm nào ở Kim Tân, Thạch Thành, ở Phú Thọ, Yên Bái, bạc đà kháng chiến đi theo người trên những con đường tiêu thổ, đôi chân trần trong bùn đất trường kỳ lạnh buốt, mái tóc mười phương dưới gió núi trùng trùng. Cuối cùng là tháng mười, ở những tháng mười quá khứ vừa sống lại là một cánh cửa gió mở vào một mùa đông xóm, ở đó cái giá lanh không chỉ của mùa. Còn của cả một số tuổi. Còn của cả một phần đời. Còn của cả một thời tiết.
Càng mưa phùn gió lạnh, càng thương nhành hoa mai. Bao nhiêu năm tôi vẫn còn rất yêu hai câu thơ năm chữ này của Quang Dũng. Và nhành hoa mai tháng mười nở giữa gió mưa Tây Bắc là một nhành hoa thơ: tập Cây Lá Phận Người của Trần Thiện Hiệp ra mắt bạn bè Tây Bắc. Tường thuật gửi về cho Sổ Tay ghi nhận một ra mắt tốt đẹp. Đông đảo, tươi tắn. Hơn 200 thân hữu cùng hài lòng với một buổi sinh hoạt súc tích, chu đáo, có tổ chức, nên trang trọng và rất văn chương. Đủ mặt những anh tài Tây Bắc. Từ tài tử Đoàn Châu Mậu, kịch sĩ Quốc Lâm, ca sĩ Hoàng Trọng Minh, nhà thơ Nhất Tuấn, nhạc sĩ Từ Công Phụng, đến hai nhà văn nữ Túy Hồng, Lai Hồng, nhà báo Phạm Kim, Nguyễn Thượng Tiến và nhà văn Phạm Quốc Bảo bay lên từ Nam Cali. Thơ Tây Bắc được chiếu cố. Bằng hữu tới dự đều mỗi người trên tay một tập Lá Cây Phận Người, và Trần Thiện Hiệp mỏi tay ký tặng đã nhận được cái phần thưởng tinh thần quý báo nhất là một tán thưởng đầy cảm tình rất ít tác giả có được với tập thơ đầu tay. Thêm một phút cảm động: Trần Thiện Hiệp trang trọng giới thiệu với toàn thể nhà văn Thế Uyên rời Saigon, tới Phi Luật Tân năm ngoái, vừa cùng bầu đoàn thê tử tới Mỹ và đã định cư ở Seattle. Chào mừng Thế Uyên đã cặp bến. Chúc mọi chuyện may mắn tốt đẹp trong thời gian mới tới, để có thể mau chóng có mặt trên những diễn đàn văn chương hải ngoại.
Tháng 10, ngày 15. Khách sạn Baltimore, Los Angeles. Họp mặt trọng thể. Năm huy chương tưởng thưởng danh dự trên một mặt bàn danh dự, trong đó có một dành cho một nhà báo Việt Nam là chủ nhiệm nhật báo người Việt Đỗ Ngọc Yến. Do Nhóm Yểm Trợ Mỹ Á Thái Bình Dương thuộc Viện Đại Học Nam Cali, tổ chức họp mặt chủ yếu là một bữa ăn tối gây quỹ để có những học bổng hàng năm cho những sinh viên Á Châu xuất sắc của Đại Học này. Chỉ trong khuôn khổ sinh hoạt của một Đại Học, nhưng ý nghĩa của tưởng thưởng rộng lớn. Bởi vừa là một đánh dấu vừa là một tuyên dương những thành tích tốt đẹp đã đạt được của cộng đồng Á Châu trên đất Mỹ, trong đó và từ 12 năm có cộng đồng tỵ nạn Việt Nam. Và Yến Đỗ rất xứng đáng với tưởng thưởng này. Cơ sở người Việt, nhật báo Người Việt hiện được coi là cơ sở truyền thông, báo chí có thanh thế lớn mạnh nhất ở hải ngoại. Nhờ tổ chức khoa học, tinh thần tập thể. Nhưng từ những khó khăn khởi đầu tới được như đang có, sự tạo dựng kiên nhẫn, từng ngày vẫn từ Yến Đỗ mà ra. Con đường báo chí từ 10 năm nay Đỗ Ngọc Yến và cặp kính dày cộm đã đi như vậy kể đã là chân cứng đá mềm và trên con đường, những dặm biếc của trang trong và những dặm hồng trong ngoài đẹp mắt.
Nobel văn chương 1987. Một bất ngờ mà các ông nghị tai quái của Hàn Lâm Viện Thụy Điển có cái bí quyết lâu lâu một lần tái diễn: phần thưởng văn chương cao quý nhất thế giới năm nay về tay một nhà thơ trung niên lưu vong. Đó là Josif Brodsky, lưu vong tới Mỹ từ 1972 và đã nhập quốc tịch Hoa Kỳ. Sinh ngày 24 tháng 5, 1040 tại Leningrad, gốc Do Thái, cõi thư Brodsky được các nhà phê bình thi ca thế giới đáng giá ngang bằng với những cõi thơ trác tuyệt nhất của thi ca Liên Sô mọi thời. Như Boris Pastermak, Marina Tsvetayeva. Như Yevtushenko, Osip Mandelstam. Tên tuổi Brodsky gây chấn động, vượt khỏi biên thùy Liên Sô thành một chấn động toàn cầu với “vụ án Brodsky” xẩy ra vào tháng 2 năm 1964. Trước tinh thần tự do độc lập của Brodsky, nhà nước chuyên chính Sô Viết đã bầy đặt ra một tòa án nhân dân. Tương tự như Hà Nội bầy đặt ra vụ án Doãn Quốc Sỹ vậy. Brodsky bị đưa ra tòa với tội danh tức cười “ăn bám xã hội” bị kết án 5 năm lao động cưỡng bách và đẩy tới một công trình miền Bắc nước Nga.
Vụ án gây phẫn nộ cùng khắp. Cả trong lẫn ngoài nước Nga. Khiến chuyên chính đỏ phải thả Brodsky nhưng sau đó cưỡng bách thi sỹ phải rời bỏ quê hương, biện pháp này chúng cũng đã dùng với Soljemtsyne, một nhà văn Nga lẫy lừng lưu vong, cũng được trao tặng Nobel văn chương như Brodsky, và như Brodsky, cũng đã nhập quốc tịch Hoa Kỳ. Hiện giờ trong giới thanh niên Nga, đang có những dấu hiệu phản chống sự đàn áp của chế độ. Để có được một đời sống tự do hơn. Với cả một thế hệ nổi loạn và nổi dậy những người trẻ tuổi ở Nga hiện giờ, Brodsky vừa là một khuôn mặt tiền phong vừa là một biểu tượng rực rỡ. Thành ra bất ngờ thì có bất ngờ. Nhưng Brodsky xứng đáng với Nobel văn chương. Như một tài thơ lớn của thi ca tiền phong thế giới. Bạn đọc Văn muốn biết rõ hơn về con người và cõi thơ Nobel văn chương 1987, xin đọc lại Văn số 22, tháng 4-1984. Qua bài biên khảo rất công phu về Brodsky của nhà văn Đào Trung Đạo.
Mái tóc bạc trắng. Nhưng mạnh mẽ, tráng kiện lấn lướt hơn bao giờ. Với một ánh mắt, một tiếng cười cùng nói lớn một sung sướng không che dấu. Vì đã hoàn thành được tốt đẹp công việc. Vì vẫn là người của đám đông và được đám đông yêu mến. Đó là Phạm Duy tháng mười này. Và tháng mười này đích thực là tháng của Phạm Duy, ông ta lấy trọn rồi không ai tranh cướp được. Này nhé, tuyển tập Một Ngàn Lời Ca đã phát hành đã chiễm chệ ở các tiệm sách. Lời ca như một giòng ngôn ngữ trữ tình bất tận, nhiều khúc óng ả như thơ. Này nhé, đêm 18, đánh dấu 50 năm âm nhạc Phạm Duy ở Thung Lũng Hoa Vàng. Chưa hết, còn nguyên một số Văn Học tháng 10 đặc biệt về họ Phạm. Và sau cùng, sinh nhật 66 tuổi của Phạm Duy ở phòng họp báo quán Người Việt, lồng vào ra mắt Ngàn Lời Ca ở Quận Cam. Một tháng 10 đầy. Đầy những vòng hoa, đầy tiếng vỗ tay. Cũng là xứng đáng. Với nghệ sĩ ôm đàn tới giữa đời, đi từ tiền chiến, đi hết chiến tranh, đi hết ba miền đất nước. Và ra tới hải ngoại, vẫn đứng đầu với những ca khúc được mọi người yêu thích nhất, vẫn là có một mặt sáng chói ở tiền trường.
Barbecue, giả cầy, cơm chiên Dương Châu, tuổi trẻ Việt ở đây và cái nguồn gốc Việt, phải cột chặt không để thất lạc. Đó là thực đơn bữa ăn tối ngoài vườn có vấn đề thảo luận nhà văn trẻ Quyên Di đãi chúng tôi ở nhà riêng, ngày 24. Họp mặt vui. Thảo luận chưa đạt được một kết quả cụ thể nào, nhưng đã nêu rõ được nhu cầu phát động một chăm sóc, một hướng dẫn mà toàn thể cùng đồng ý. Sao cho tuổi trẻ ta không hư hoại, không mất gốc. Tôi đã sống cùng Quyên Di năm tháng ở Pulau Besar, một trại đảo tạm trú ngang đường trên đất Mã. Đi chân đất, mũ đội lá, hai anh em từng đã tham dư vào nhiều sinh hoạt trại. Rời Pulau Bidong ân cần dặn tôi:” Anh sang Mỹ làm báo ở đâu, cho em làm cùng”. Rồi chẳng phải cho ai hết. Đã khởi hành, đã tự làm. Đúng như người trẻ tuổi quả cảm, đầy thiện chí, buổi sáng thức sớm cùng tiếng kẻng, buổi tối còn làm tiếp công tác tôi đã thấy ở Quyên Di và từ Pulau Besar. Bây giờ đã có một nhà in nhỏ trên đường Westminster. Đã làm được tờ Tuổi Hoa. Đã là một có mặt tươi tắn, chững chạc trong sinh hoạt cộng đồng. Như cái hình ảnh đáng yêu tôi vẫn thấy, lại thấy về Quyên Di trong bữa ăn tối đãi chúng tôi tháng này ở căn vườn sau nhà. Quyên Di trình bày vấn đề mạch lạc, dịu dàng và mọi người cùng chăm chú lắng nghe, cùng nghiêm chỉnh góp phần thảo luận.
.
Mai Thảo.
===============================
Sổ Tay Mai Thảo
Số 71 –tháng 5 1988
Sổ tay tháng tư
Tháng tư. Đêm đầy sao và đêm lạnh buốt. Đêm hy vọng và đêm tuyệt vọng. Đêm có biển trời thế giới bên ngoài nằm trong hàng triệu tấm lòng lâm nguy cùng hướng tới. Đồng thời cũng là đêm của hàng triệu cuộc đời đã nhìn thấy cùm xích và mồ chôn tập thể ở bên trong. Tòa đại sứ Mỹ, đại lộ Thống Nhất. Cổng trại Phi Long, lối vào Tân Sơn Nhất. Thư viện Lê Quý Đôn. Chỗ của những cuốn sách. Bến Bạch Đằng, còi tàu, trùng khơi và viễn du. Từ những điểm hẹn này, một đêm cuối của một tháng đen, cả một rừng mắt của bốn triệu người Sài Gòn mắc bẫy cùng hướng hết lên một trời đêm tối thẳm, ở đó không còn sự trả lời nào, chiếc trực thăng di tản cuối cùng đã bay ra Đệ Thất Hạm Đội. Tháng tư. Nhớ mãi. Nơi đáy cùng tâm khảm. Tháng tư. Không bao giờ quên. Khi mỗi tháng tư về. Tháng tư, của những điểm bốc tan hoang. Của một đón người lạ lùng. Của một bỏ người vĩ đại. Nắng tháng tư vẫn đang đuổi theo đoàn biển người kinh hoàng vỡ tổ trên quốc lộ Một, bầy quỷ ma tiền thám của một chế độ muông thú đã ập tới cửa ngõ Sài Gòn. Mưa giới tuyến còn bay nghiêng trên nón sắt những người lính trẻ tử thủ, đã trên Đài Phát Thanh cái lệnh đầu hàng đau nhục, đã tấn thảm kịch của giã từ vũ khí, đã lối đến nhà tù của cả một nước tù nhân. Đặt ra vấn đề trí nhớ dài tầm hay ngắn tầm. Để quên hay để nhớ. Để nhớ hay để sống. Như trò chơi của trẻ nhỏ chiếm cột. Cái cột này rời phải cái cột kia tới. Từ nguyên lý của tồn tại và của sống sót. Đặt ra vấn đề tấm lòng ta ở đây hay tấm lòng chẳng ở. Như huyền thoại cây quýt hết là quýt khi không còn được trồng trên vườn đất Giang Nam. Như vĩnh biệt ấy của người Xuân Thu, anh về nhắn với bằng hữu tôi, chân trời góc biển nào, sơn cùng thủy tận nào, kẻ ra đi vẫn một đời ở Lạc Dương cùng bạn. Nơi thơ Vũ Hoàn Chương đã mấy lời thơ tuyệt đẹp. Hoặc vắn gọn, đặt ra cái vấn đề còn trở về hay chẳng thể, còn thấy lại hay vĩnh viển nghìn trùng khuất cách. Là đặt ra một câu hỏi tháng tư, một nghìn câu hỏi của tháng tư, từ tháng tư, cho tháng tư, với tháng tư này lại đặt. Và vẫn không trả lời được. Vì tâm thức một người hữu hạn mà câu hỏi là câu hỏi giống nòi.Và vẫn không tìm được đáp số. Vì một vài biến thái của thời sự, còn tiến trình của lịch sử thì chẳng còn một quy luật tất yếu nào để bảo rằng đêm tối sẽ bình minh.
Cho nên cái nắng của tháng tư vẫn là một giải nắng hoang mang, một ý nắng ngờ vực. Với ta. Từng người. Cho nên cái mưa của tháng tư mưa đúng đỉnh đầu lại như không biết tự trời nào mưa đổ. Từng người. Nơi ta. Có như, che hết thời tiết, ta chỉ có một bàn tay nhỏ xíu. Như một tựa truyện Túy Hồng, Tay Che Thời Tiết. Có như trong đổi đời và trôi dạt, thời và không gian cùng biến thể biến tướng, khiến một ngày mà như ba thu đằng đẵng, đã mười năm mà tưởng mới một ngày. Như tựa tập nhạc Mười Năm Thấm Thoát của Phạm Duy. Trầm thống tháng tư không chôn cất trong một quá khứ nào. Nó vẫn hiện tại. Sừng sững trước mặt. Ở tôi, trong anh. Ngọn đỉnh nó vô tận. Đáy vực nó cũng vậy. Và cũng bởi vậy mà chẳng có một trái tim, một trí tuệ nào đủ tầm đo nổi. Và cũng bởi vậy mà chưa có một cuốn sách nào, dẫu cả nghìn trang, nói trọn, nói hết được thế nào là trầm thống tháng tư. Henry Kissinger, Frank Snepp, André Lartéguy. Một chút ngoại giao đi đêm, một chút tài liệu mật, một chút Sài Gòn mất. Chỉ một chút, một chút. Trong Vết Xe Lịch Sử của Bùi Diễm. Hồ Sơ Mật Dinh Độc Lập của Nguyễn Tiến Hưng. Việt Nam Máu Lửa của Đỗ Mậu. Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên của Phạm Huấn. Hàng chục thiên hồi ký khác suốt mười ba năm từ đó của Nguyễn Cao Kỳ, Trần Văn Đôn, Nguyễn Chánh Thi. Cũng vậy. Cho là những nỗ lực tốt đẹp đi. Của những người có mặt, trong cuộc, thành tâm muốn chiếu sáng trầm thống lớn bằng sự chiếu sáng của nghìn tia hồng ngoại tuyến. Chỉ mới là một mặt. Chỉ mới được vài phần. Ấy là chưa kể trong một số trước tác vừa dẫn, người viết chẳng hề viết về đại thể, chỉ nhằm biện minh, đề cao, bào chữa cho bản thân mình. Đó cũng là một vết đen nữa của tháng tư đen. Nơi nó vẫn đầy ắp, tận cùng trong mỗi chúng ta. Mà cái toàn bộ toàn cảnh, sau mười ba năm, vẫn chưa có một công trình văn chương nghệ thuật nào làm cho thấy rõ.
Đợi một chị bạn từ Paris gửi sang cho một biên khảo mới xuất bản về tháng tư trầm thống. Cuốn Tháng Tư Tàn Nhẫn (Cruel Avril) của nhà văn Pháp Olivier Todd. Cuốn sách đang gây chấn động. Được các nhà phê bình nổi tiếng như Jean Francois Revel, Alain Duhamel hết lời ca tụng. Việt Nam ở Pháp rất quen biết Todd. Yêu mến và thân thiết. Bởi ông là bạn của Việt Nam, đã nhiều lần tham dự vào những vận động đòi hỏi tự do và nhân quyền, chống lại bạo quyền Hà Nội. Thời gian Todd đi đi về về Việt Nam, khắp nơi, tìm tiếp xúc với hàng trăm nhân chứng cho thiên biên khảo chính trị của ông về những ngày cuối của Sài Gòn, tới Cali. Ông có đến gặp tôi. Mạnh mẽ, tráng kiện, làm nghĩ tới Albert Camus, Olivier Todd là một nhà văn chính trị, un e1crivain politique, qua cái ý nghĩa tây phương toàn phần của danh từ. Nghĩa là sống và viết đều có thái độ, từ một vị trí ý thức nhất định của một nhà văn, trước những vấn đề hàng đầu của thế giới. Một buổi trưa nói chuyện thành thực, thẳng thắn, Todd xin được thâu hết vào băng. Những câu trả lời của tôi chạy quanh câu hỏi chính của Todd: “Theo ông, miền Nam sụp đổ vì những nguyên nhân nào?”. Nhớ tôi đã trả lời: nhiều, xa, gần, không chỉ ở một vài. Và nói một số điều tôi biết. Từ biệt, Todd đòi tôi phải cam kết chừng nào sang Pháp, tới ngôi nhà nghỉ mát của ông ở hạt Var, ông sẽ đãi rượu chát Pháp thượng hạng và món bouillabaisse ông khoe là ăn rồi còn nhớ. Về Pháp, Todd còn viết thư. Lá thư ngắn nhưng rất lịch sự. Cám ơn, xin lỗi nữa, nếu một số câu hỏi tôi thấy lăng nhăng và phù phiếm. Mùa hè năm ngoái, sang Pháp, xuống Nice thăm bằng hữu cũ, thấy gần đường và nhớ đến lời hứa với Todd, tôi đã định dành một ngày cho rượu nho Pháp lấy lên từ dưới hầm và món súp đồ biển của nhà văn chính trị, từng một thời là chủ bút tờ L’Express danh tiếng. Không may, đúng ngày đi, hạt Var cháy rừng. Mọi trục lộ giao thông tới nó đều bị gián đoạn. Đành chờ đọc cuốn Tháng Tư Tàn Nhẫn, anh Phạm Kim Vinh, người dịch sang Việt Ngữ, dịch thoát ý là Tháng Tư Đen. Và hẹn với món bouillabaisse trấn môn của Olivier Todd một lần sang Pháp khác.
Điện ảnh. Minh tinh màn bạc. Nghệ thuật thứ bảy. Hàng triệu tín đồ mê đắm. Một tôn giáo mới của thế kỷ. Ngồi trọn một buổi tối trước truyền hình, đài số 7, theo dõi từ đầu tới cuối đại hội trao tặng tượng vàng Oscar năm nay. Thế giới hàng năm có ba đại hội điện ảnh lớn. Là Venise ở Ý, Cannes, ở Pháp, và Oscar ở Hoa Kỳ. Tưng bừng lộng lẫy nhất vẫn là Oscar, tài tử nào có một pho Oscar trong tay là đã leo tới ngọn đỉnh vinh quang, tuyệt đỉnh nghề nghiệp. Độc đắc cá cặp năm nay về cô đào Cher và nam tài tử Michael Douglas, con trai lớn đại thụ Kirk Douglas. Bộ phim dẫn đầu về số tượng vàng là bộ phim lịch sử dàn cảnh vĩ đại Empire Of The Sun. Xứng đáng. Mặc dù điện ảnh Hoa Kỳ phong phú vô tận, mỗi năm có hàng trăm tài năng, kiệt tác xứng đáng tượng vàng như nhau.
Coi trao tặng Oscar, hồi tưởng lại 20 năm điện ảnh miền Nam tôi được tham dự từng hồi vào sinh hoạt. Bằng viết đối thoại, dựng truyện phim cho nhiều cuốn tiểu thuyết được đưa lên màn bạc. Bằng cùng với Thanh Nam làm cố vấn văn chương cho một hãng sản xuất lớn ở Sai Gòn. Bằng làm chủ bút nhiều năm cho hai tuần báo thuần túy ciné là tờ Kịch Ảnh và Màn Ảnh. Sinh hoạt điện ảnh sống động, tươi vui, hơn sinh hoạt báo chí và văn chương nhiều lắm. Chẳng trách Hoàng Anh Tuấn vẫn nhớ, Kiều Chinh còn quyết tâm theo đuổi tới giờ. Chỉ tiếc điện ảnh ta ra tới ngoài nước mất hẳn đất đứng, hết nhẵn phương tiện, chỉ còn có những góp phần nhỏ nhoi và mờ nhạt vào điện ảnh Mỹ mà thôi. Thành ra chuyện tượng vàng, tượng bạc Oscar, chuyện đại hội điện ảnh giờ chỉ còn là đứng ngoài mà nói.
Tháng Tư. Miền Đông. Giòng Potomac một mùa đông trước, một chiếc phản lực gãy cánh rớt xuống mặt nước đóng băng, hành khách chết chìm trong giá lạnh. Tháng tư này, Potomac không có xác người, không có mộ huyệt, chỉ phơi phới một rừng hoa anh đào vừa nở và soi bóng tuyệt đẹp trên Potomac vào xuân đúng ngày tôi sang. Theo bạn đi xem hoa. Thưởng hoa. Chút thôi. Cùng bạn vào họp mặt, vào nhậu nhẹt nhiều hơn gấp bội. Ba ngày Văn Bút. Tới dự một chút, như một thân hữu. Thấy được, thấy gọn, có cuối có đầu. Buổi ra mắt sách. Tươm tất, ấm áp. Miền Đông có tổ chức, có phép tắc, họp mặt nào cũng chững chạc, đàng hoàng. Ngồi dưới một hàng ghế cuối, nghe bằng hữu trên bục nói tới sách mình, nhớ tới một buổi chiều mưa, vừa từ trại đảo sang, tới đại học Cornell, xuống thư viện, nhìn lại ngót năm mươi năm cuốn sách một đời đã viết. Một buổi chiều buồn. Sách. Cũng vậy mà thôi. Cũng cầm bằng theo gió. Sách từng thời đã hết mọi trời đất của sách. Sach từng khi không còn ở với người. Nghe tiếng bạn bè nhắc lại thời kỳ mới từ Bắc vào Nam, mới ra tờ Sáng Tạo. Mới Nguyên Sa từ Pháp về. Mới Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên, những bài thơ tự do thứ nhất. Và những bạn đường mới gặp thuở ấy, Doãn Quốc Sỹ, Trần Thanh Hiệp, Nguyễn Sỹ Tế, Cung Trầm Tưởng, Nghi Cao Uyên, Duy Thanh, Ngọc Dũng. Nghe vui vui, nghe lại ngậm ngùi. Như một câu thơ Thế Lữ : cái thuở ban đầu lưu luyến ấy. Giờ thấy đã thật xa, thật xưa, đã dâu biển, đã đổi đời, đã tuổi hạc về chiều, đã kẻ còn người mất.
Rồi là bạn hữu đông kín với tiếp tân thân mật kết thúc. Đảng VOA: Lê Văn, Nguyễn Sơn, Phạm Trần, Bùi Bảo Trúc. Những kiện tướng của làng bào miền Đông:Giang Hữu Tuyên, Chử Bá Anh, Ngô Vương Toại. Nhà thơ Đỗ Quý Toàn từ Canada sang, bao giờ cũng tươi cười, nói chuyện một lúc về thơ ra tù tuyệt tác của Tô Thùy Yên từ quê nhà từng đoạn gửi sang. Hoc giả Cao Thế Dung, khoe đã viết xong 3000 trang văn học sử. Nữ ca sĩ Quỳnh Dao đi hát từ San José về, nói Đêm Nhạc Chinh Phụ Ngâm của Cung Tiến thành công ngoài dự tưởng. Nhà văn Vĩnh Lộc, trầm lặng, tôi yêu mến từ cái truyện dài của anh trên tờ Đời Mới của Trần Văn Ân và Nguyễn Đức Quỳnh. Nhà văn Nguyễn Quang Hiệu nghỉ viết từ ngày tới Mỹ. Họa sĩ Ngy Cao Uyên, nhà văn nữ Vi Khuê, hai khuôn mặt văn chương nữ phái mới Nguyễn Thị Thanh Bình, Nguyễn Thị Hoàng Bắc. Và cây đèn cũ Trương Anh Thụy chỗ nào cũng thấy mặt. Và xếp sòng Nguyễn Ngọc Bích hoạt động nào cũng có tên. Nhiều nữa. Bạn, bạn hết. Của một tuần họp mặt. Chia tay. Trở về. Hẹn lại với bằng hữu miền Đông mùa hoa anh đào năm tới.
Họp mặt về sách đi liền với ký tặng sách. Ký mỏi tay. Ký chết bỏ. Cứ thế mà ký, không ngẩng đầu lên. Nhà văn Tây Phương, mỗi ra mắt sách họ thường rất đơn giản. Một cái bàn lớn. Sách xếp từng chồng. Sartre, Sagan, Durs, Faulker, Dos Pasos cây bút ngồi sau. Hàng dài người thứ tự đi qua. Ký tên và hết. Ký sách ta vui hơn, việc làng hơn. Còn là một cái cớ cho bằng hữu họp mặt, cười nói ồn ào, ăn nhậu tùm lum. Cung cách đề tặng, ký sách cũng mỗi thời mỗi khác. Nhà văn bây giờ không cầu kỳ không chơi chữ. Thường chỉ một giòng tặng X. tặng B. ngắn cụt và ký tên nhanh. Nhà văn, nhà thơ tiền chiến không vậy. Rất hoa hòe hoa sói. Chữ ký Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, Lưu Trọng Lư, mười mấy nét rồng bay phượng múa, còn triện son năm bảy kiểu, kiểu âm dương, kiểu chân phương, kiểu đá thảo đóng xuống chữ mình. Rất đẹp. Trên một nền giấy Lụa Gió Tây Hồ, Bạch Vân, Sông Tô là những nhãn giấy quý của ấn loát thời trước. Số ấn bản đặc biệt, không bán, dành riêng cho tác giả củng rất mực cầu kỳ. Mỗi cuốn một tên riêng. Như tập thơ Gửi Hương Cho Gió, bản một là Xuân Diệu, bản hai là Huy Cận, bản ba la Huy Xuân, bản bốn là Xuân Thu, bản năm mới đến bản Thời Đại là tên nhà xuất bản. Đã là trang trọng, đã là chơi sách. Lời đề tặng của người tiền chiến cũng vậy. Lựa chọn từng chữ, óng chuốt như thơ. Cho nữ diễn viên Lê Trọng Quỵ, thủ vai chính vở kịch Ngã Ba của minh, Đoàn Phú Tứ đề tặng :"Kính tặng Lê Trọng Quỵ phu nhân, người đã vì tài sắc thanh kỳ làm cho vở kịch quê mùa này được biết tới những chiều lộng lẫy”. Quả là một đề tặng lộng lẫy. Đề tặng một người đàn bà nổi tiếng một thời và có một cái tên thập đẹp là Thanh Viễn Thanh, Nguyễn Tuân chơi chữ:” Tặng người, như đã có tự nghìn đời và có một cái tên rất xanh và rất xa”. Tôi còn nhớ một truyện ngắn tiền chiến đã đọc : Những Đứa Con Hoang. Về ăn mừng sách, đề tặng sách. Cũng của Nguyễn Tuân thời chưa theo Bác, Đảng. Rất hay. Ăn mừng sách trọn đêm. Bên cạnh bàn đèn thuốc phiện, giữa mấy tri kỷ với nhau, trên một căn gác cô đầu, bên ngoài là đêm đông và mưa phùn thả giọt. Tới đề tặng sách cho Dì Năm, người chủ cô đầu, cũng là một kỹ nữ nổi tiếng cầm ca, tác giả hạ bút: “Tặng Dì Năm. Tự nghìn cổ tới giờ, danh sỹ và danh kỹ một thời bao giờ cũng cùng một con đường rộng như những trang sách và dài thẳm như những hàng chữ in”. Ghê quá, cái sự chơi chữ tiền chiến. Không vậy, sao Lãng Nhân Phùng Tất Đắc viết cả một cuốn sách về nghệ thuật chơi chữ. Cũng vui. Thành giai thoại hết. Có điều là nhà văn bây giờ không có được sự ung dung nhàn hạ ấy. Thời giờ nào cũng hữu hạn. Đề tặng thật ngắn. Ký tặng cho mau. Phải ra phi trường ngay.
Tháng tư. Tin đầu xóm : Thiên tài động đất Phạm Công Thiện, trong chung sống mới, sắp có một tí nhau đất động mới. Nhà thơ Cao Đồng Khánh, ngất ngưởng một mình một cõi, đang làm đầu bếp tới ba tờ báo ở Houston. Viết ngày viết đêm. Thung Lũng Hoa Vàng San Jose từ tháng này có thêm hai nhật báo. Cộng với hai đã có, tờ Việt Nam, tờ Dân Việt, đứng đầu ở hải ngoại về số lượng báo ngày của một vùng. Miền Đông có thêm nhà xuất bản mới với nhà văn chủ tiệm Trần Phùng Linh Duyên. Nữ tài tử Kiều Chinh, khách mời danh dự của đại hội luật gia Á châu, bài diễn văn đêm khai mạc hô hào mọi sắc dân Á châu cùng đoàn kết lại được toàn thể hội trường đứng lên hoan hô nhiệt liệt. Và hoa anh đào đã, đã tàn trên bờ sông Potomac.
Sách mới. Không về Tháng Tư, nhưng chào đời trong tháng tư và là một trường hợp văn chương hi hữu. Penelope Faulker, một phụ nữ Anh, chính gốc thần dân Nữ Hoàng, sống với Việt, học tiếng Việt, nói tiếng Việt, tới thêm một nấc nữa, viết nổi văn Việt, vừa có cuốn Quê Nhà do Quê Mẹ xuất bản ở Paris. Tên Việt Nam của Penelope Faulker là Ỷ Lan. Cao lớn, mạnh mẽ, nhưng dáng điệu và tiếng cười thơ ấu, nói tiếng Việt thành thạo đến bật cười. Ỷ Lan Penelope đã từng lái xe cho đảng Quê Mẹ và tôi lang thang suốt đêm giữa Paris mùa thu. Tới ba, bốn giờ sáng còn tươi tắn như một nhành hoa sớm trong một quán rượu khu sông Seine tả ngạn. Rủ uống rượu uống. Rủ ra sân nhảy, ra. Khá vui. Đi theo cặp Thị Vũ, Phương Anh cùng khắp. Cho mọi vận động cho Quê Nhà, quê nhà Việt Nam, tên tập sách cũng là quê hương mới Penelope Faulker, tóc Anh Quốc vàng hoe nhưng áo dài Việt Nam óng ả đã nhận được với tất cả nhiệt tình và yêu mến.
Đọc lướt qua tập Quê Nhà vừa được gửi tặng. Thấy bút pháp ngay ngắn, văn thể sáng rỡ. Tuy chỉ là một số bài báo tường thuật những sinh hoạt những họp mặt, ngôn ngữ Việt vẫn nằm trong khuôn khổ, chưa có những kỳ ảo, chưa có những thân tình. Thế là được rồi. Từ từ. Để Anh Quốc sương mù theo kịp Việt Nam đũa son. Viết tới nơi hơn nữa, chắc chắn vậy. Về Việt Nam. Cho Việt Nam. Như tấm lòng và tình yêu lớn của Ỷ Lan, giữa chúng ta đã là thế.
Trần Thanh Hiệp. Về nhé. Hẹn anh mùa thu này ở Paris. Đỗ Quý Toàn. Không ở được lâu hơn, ông cho tôi về Montreal trước. Nguyễn Ngọc Ngạn. Gặp anh lần này ít thời giờ quá. Bao giờ anh sang Ottawa? Thế Giang. Phải ra phi trường về Đức sáng mai rồi. Lệnh vợ. Anh có sang Âu Châu cố tới Dormund với em một chuyến. Cung Tiến. Mấy ngày ở Quận Cam vui thật là vui. Các anh tổ chức được một đêm diễn cho hòa tấu khúc Chinh Phụ Ngâm của tôi ở Nam Cali, thì vợ chồng tôi lại có dịp bay từ Minnesota sang Tiểu Saigon ăn nhậu. Và tháng tư của những họp mặt còn là tháng tư của những bắt tay tạm biệt, những vẫy tay giã từ, những hẹn hò gặp lại. Trái đất với cái nắng tháng tư rực rỡ đang chan hòa trên nó quả là tròn, thiệt tròn. Và những nhà tương lai học trong cái hội Club de Rome danh tiếng hoàn vũ, khi nói rằng vì những tiến bộ kỳ diệu của chuyển dịch, của truyền thống, trái đất chỉ còn nhỏ bằng một trái cam, Âu Châu là xóm trên, Mỹ Châu là xóm dưới, đã nói đúng một sự thật. Nó tròn thật, nó nỏ thật. Khiến ngàn dặm cũng láng giềng. Khiến anh không phải mãi mãi một đầu sông Tương xa cách, em mãi mãi một cuối sông Tương thương nhớ. Khiến anh chị em văn nghệ từ trong nước đi ra ngoài nước, tan tác trên mọi ngã đường thế giới, nhưng định có họp mặt là có họp mặt, muốn có gặp lại là có gặp lại. Như mấy đoàn viên rất vui, ở miền Đông, ở miền Tây trong một tháng tư này. Mừng gặp lại các bạn. Chào các bạn trở về địa phương mình. Trái đất tròn. Và nhỏ. Nhắc lại với nhau như thế một lần nữa. Bạn ở chân trời nào cũng chỉ là xóm trên, tôi ở góc biển nào cũng chỉ là gần thôn xóm dưới. Và cái làng Việt Nam của những Xóm Thượng, Xóm Hạ, những thôn Đông, thôn Đoài không nghìn trùng xa thẳm nữa nếu luôn luôn có thêm nhiều họp mặt nữa. Để trôi dạt thì vẫn là trôi dạt. Nhưng vẫn chung một giòng, vẫn cùng một bến. Bởi những cơ hội gần nhau.
.
Mai Thảo
==========================
.
thơ MAI THẢO
CHỈ ĐỤNG
Vuốt lên, đo núi bao nhiêu đỉnh
Vuốt xuống, dò thăm biển mấy tầng
Tưởng đụng vô cùng và tuyệt tận
Chỉ đụng chòm râu ở giữa cằm
(trích báo Văn trang 52, số 86, tháng 8 năm 1989
báo quán: 9335 Bolsa Ave # 211
Westminster, California 92683)




Comments