Nhà Văn Tạ Duy Anh
- ductungducnguyen
- Sep 1
- 16 min read

BƯỚC QUA LỜI NGUYỀN
(PHẦN ĐẦU)
Theo đề nghị của nhiều bạn đọc, nhân kỉ niệm 35 năm ngày "Bước qua lời nguyền" và "Lũ vịt giời" được "vinh danh", tôi xin lần lượt đăng lại cả 2 truyện.
Sau đây là nhận xét của giáo sư Hoàng Ngọc Hiến:
"Đọc truyện của TDA, một câu hỏi được đặt ra: Giã từ thế kỉ XX bão táp và máu lửa này và chuẩn bị bước vào thế kỉ XXI "lý trí và nhân bản", những lời nguyền nào là đáng nguyền rủa? Những lời nguyền nào nhân loại trước sau phải bước qua? Phải chăng câu hỏi bức thiết này cũng được đặt ra cho mỗi người, mỗi quốc gia? Phải chăng truyện của TDA là tín hiệu của một dòng văn học mới, dòng văn học "Bước qua lời nguyền"...
______________________________
Năm lên bảy tuổi, tôi đã được giáo dục khá cẩn thận về vị trí mà tôi đang chiếm một khoảng tí teo giữa cuộc đời mênh mông này. Tôi phải nhớ rằng thành phần gia đình mình bần nông. Dĩ nhiên bần nông là gì, nó khác địa chủ phú nông ở chỗ nào thì tôi không biết. Đầu óc trẻ con của tôi làm sao hiểu được những quy định phức tạp ấy.
Khi lật tập hồ sơ mỏng teo, có lẽ cũng đơn sơ như tâm hồn tôi, cô giáo dạy vỡ lòng, xinh đẹp như tiên sa, lẩm bẩm: "Thành phần cơ bản. Được". Rồi cô trịnh trọng tuyên bố: "Kể từ hôm nay em có nghĩa vụ phải làm sáng danh cha anh mình".
"Làm sáng danh cha anh mình". Nghe mù mờ mà hấp dẫn quá. Bởi ít nhất có một đứa trong lớp "không được làm sáng danh cha anh mình".
Con bé có cái tên rất thành thị: Quý Anh. Nó kém tôi một tuổi, là đứa duy nhất trong lớp có lý lịch phức tạp như lời người lớn vẫn nói. Ngày ngày nó đi học cùng với chúng tôi nhưng bao giờ cũng sau một đoạn:
- Mày là con địa chủ bóc lột!
Văng vẳng bên tai Quý Anh suốt thời cấp một là những lời trêu chọc như vậy. Dường như ý thức được số phận của mình, nó luôn luôn sợ hãi nhìn xung quanh, chiếc mũ rơm bao giờ cũng che sụp gần hết mặt. Vào lớp nó khép nép ngồi ở bàn cuối.
Khi cô giáo của chúng tôi giảng bài "Đôi bạn" thì Quý Anh trở thành một tên tội phạm thực sự. Đoạn con hươu được con rùa mách, đá lão địa chủ ngã nhào, một đứa ngồi giữa lớp hét toáng lên: "Bố con Quý Anh đấy! Chết cha bọn địa chủ đi". Cả lớp khoái chí trong khi Quý Anh gằm mặt nhìn xuống bàn. Nó không khóc nhưng gương mặt đờ đẫn tới mức chính cô giáo phải chữa lại: "Không phải bố Quý Anh đâu. Chỉ là một thằng bạn của bố em ấy thôi".
Tan học, đám trẻ con chúng tôi ùa chạy trên đê Chùa. Quý Anh tụt lại, lủi thủi như con chó con bị đàn ruồng bỏ. Nó tưởng thế là thoát, nào ngờ hôm đó chúng tôi quyết định phải "đấu" con bé thay bố nó.
Mặt tái mét. Quý Anh bị xô đi đẩy lại, đứng vào giữa vòng tròn. Thoạt đầu một đứa con gái trong đám bần nông cầm roi quất vào người Quý Anh:
- Tại sao mày bóc lột nhân dân?
Quý Anh ôm chặt chiếc cặp sách, mắt trống rỗng nhìn đám đông. Một hòn đất nát bay thẳng vào mặt con bé: "Khai mau!". Lại một hòn nữa rồi cả trận mưa đất trút lên toàn thân Quý Anh. Nó vội ngồi thụp xuống đưa tay lên gỡ đất và xoa vết thương, không hé nửa lời.
- Thôi tha cho nó, hôm sau lại đấu tiếp.
Hôm sau, tháng sau và suốt một thời trẻ con, chúng tôi không ngớt hành hạ Quý Anh. Có hôm mặt nó tím bầm. Cũng có bận nó khóc, còn đa phần nó gắng chịu đựng. Một sự chịu đựng mà ngay cả lúc lớn tôi vẫn không sao giải thích được.
Bố Quý Anh là lão địa chủ nòi. Thấy bảo trước kia lão gian ác có hạng. Sau Cải cách ruộng đất, gia sản của lão bị xé nát và vợ chồng lão phải dựng lều ra ở rìa làng. Chẳng biết ngày xưa lão lý trưởng ăn gan uống máu ra sao, nhưng khi tôi lớn lên chỉ thấy lão nhu mì như hòn đất. Suốt ngày lão câm lặng, cặm cụi cùng vợ con cày xới mảnh vườn bé tí tẹo. Ra đồng, lão lý trưởng xưa kia cũng đứng riêng một chỗ. Gặp từ đứa trẻ lên sáu, nhất nhất lão đều lên tiếng chào trước.
Một hôm tôi bảo với bố tôi:
- Ông Hứa ngày xưa ác bá ra sao, mà ngày nay ông ấy hiền thế.
Bố tôi trợn mắt:
- Mày sắp quên mối thù rồi đấy. Chẳng qua thời nay là thời của bần - cố nông thì lão phải chịu đấy con ạ. Mẹ tiên sư, giá lúc nó xua tuần đến đốt nhà ông nội mày mà mày được chứng kiến nhỉ!
- Lão Hứa xua hả bố?
- Chứ còn ai vào đấy. Thằng Tư Vê đeo kiếm dài chấm đất lúc nào chẳng cặp kè với lão Hứa, ai dám ho he. Gớm, nó chả hiền sớm cho đấy.
Và để tôi ghi mối thù vào xương tủy, mỗi ngày bố tôi lại kể cho tôi nghe một chuyện thời xưa về sự tàn ác của lão Hứa. Mỗi ngày một chuyện, lời kể của ông tuyệt vời như kể chuyện cổ tích, khiến tâm hồn tôi thấm đẫm những hồi ức kinh hoàng không bao giờ còn hong khô được nữa.
*
Sau trọn mười năm, kể từ ngày khóc thầm ra đi, tôi lại trở về cái nơi ghi dấu mãi tuổi thơ cay đắng của tôi. Bố tôi già đi ghê gớm. Tóc ông bạc như cước, xơ xác trên chiếc trán bị thời gian đào rãnh lô xô. Em út tôi lớn phổng lên thành một thiếu nữ xinh đẹp. Mười năm trước, chính nó từng họa theo lời bố tôi để thét lên: "Anh hèn hạ lắm! Anh cút đi cho bớt tai tiếng". Lúc đó nó mới mười hai tuổi, nổi tiếng là đứa bé có bản lĩnh. Nó giống bố tôi như đúc cả về hình thức lẫn tính cách. Giờ đây em tôi, con bé chỉ thích đeo kiếm đóng vai nữ tướng hồi bé, vồ lấy tôi khóc nức nở. Nó khóc thổn thức, ai oán đến nỗi tôi phải ngồi thụp xuống gạt nước mắt. Đến lượt mẹ tôi, bà chỉ dám khóc thầm sau tấm màn che gió. Lâu lâu bà mới cất tiếng:
- Đưa anh đi rửa ráy, con!
Đấy là bà bảo em tôi. Ôi trái tim người mẹ, bao giờ cũng có chỗ cho ta, sau khi mệt mỏi về trú ngụ. Bố tôi thì khác, ông xúc động theo kiểu người cha. Ông ngồi ở bàn, vầng trán vằng vặc như chính người đang tính toán tiếp con đường công nghiệp mà người mơ cho tôi, bị đứt đoạn mười năm. Cặp mắt người vốn nổi tiếng một vùng vì độ thấu xa, không mảy may biểu lộ người mừng hay coi đó chỉ là chuyện trẻ con.
Tôi đến ngồi bên chiếc tràng kỷ nhẵn bóng, đối diện với bố tôi:
- Mười năm anh đi những đâu?
- Thưa thầy, con đi gần hết cái đất nước này.
- Anh thấy nó rộng hay hẹp?
-...
- Chưa vượt biên chứ?
Tôi vẫn im lặng, bắt gặp cái nhìn chia sẻ từ sau cánh cửa của em gái tôi. Tiếng bố tôi vẫn đều đều:
- Mười năm anh học được cái gì mang về?
- Con học được nhiều thứ. Nhưng thứ quý nhất mà cuộc đời cho con là phải biết tự định đoạt lấy mình.
- Nghe nam nhi đấy. Giỏi!
Tiếng "giỏi" mà bố tôi buông ra như dấu chấm hết một đoan văn hay nhưng với ông không lọt được lỗ tai. Tiếng "giỏi" ấy còn có nghĩa "Được, để xem". Hết chuyện. Tôi uể oải đứng dậy theo em gái tôi ra phía bể nước. Nó cầm chiếc khăn mặt chờ sẵn ở cửa, nắm tay tôi kéo như chạy.
- Anh chấp bố làm gì! Càng lớn em càng thương bố. Cuộc đời cũ vầy vật bố đến mức bố không thể quên được nó. Nhưng thôi, thế là thoát.
Đứng xem tôi hành hạ chiếc khăn mặt, nó tỉ tê:
- Anh về mà xem làng xóm, thay đổi khủng khiếp. Mấy chục năm xây dựng mà cứ xác xơ như trong cảnh "Tắt đèn". Lớp người lớp tuổi bố chết gần hết rồi. Vẫn hẹn nhau xuống mồ nữa cơ.
- Những ai mà chết gần hết?
- Ngoài bố ra còn ba vị nữa đang thập thò miệng lỗ. Cho các vị đi hết đi để đến lượt anh em mình làm chủ thế giới. Đến khổ với các vị.
- Vẫn thù nhau à?
- Thù càng ác liệt. Ngày mai anh sang chơi ông Mịch mà xem. Tuy tím tái hết chân tay đấy nhưng vẫn luôn mồm hỏi con thằng ấy, thằng nọ có vác mặt đến không thì lót lá dắt ra ngõ hộ.
Nước mát làm đầu óc tôi bớt nặng nề. Nhưng càng tỉnh táo tôi càng như bị ném vào tình thế phải che chắn tứ bề. Sẽ ứng xử ra sao cho ba vuông bảy tròn giữa những con người cứng đờ vì thiên kiến. Cuộc đời chiến sĩ chỉ dạy tôi điều đơn giản, nếu kẻ thù ở hướng nào phải quay súng về hướng ấy. Còn nó ở bốn phía thì chính mình phải nổ tung! Trong trường hợp này, quá lắm tôi cũng chỉ đến mức - như mười năm trước - gào to lên lời nguyền rủa độc địa cho cái mảnh đất đầy thù hận này chìm lặng đi.
Tôi theo em gái ra thăm khu nghĩa địa. Quê tôi vẫn có thói quen chỉ tin vào người chết! Khu nghĩa địa của làng tôi lúc đầu chỉ có độc chiếc mả ngựa. Một vị tướng không rõ từ thời nào, đã an táng con chiến mã của mình khi con ngựa đầy chiến tích ấy đến làng tôi thì gục xuống chết. Khi tôi lớn lên người ta vẫn gọi khu đất hoang ấy là "gò con ngựa" mặc dù chính thức là nơi yên nghỉ của những người đã hưởng đủ của trời. Giờ đây bãi nghĩa địa bị chia cắt làm năm, bảy mảnh. Những người bình thường khi sống, thì khi chết ngôi mộ của họ xem ra cũng hiền lành. Nhấp nhô hàng trăm mô đất sàn sàn như nhau, cỏ mọc xanh rì. Làng tôi gọi đấy là khu bình dân. Sau hàng rào quét sơn trắng nổi lên đám mộ được xây cất công phu thò ra thụt vào, chạy song song nhau. Rồi lại một đám khác, lù lù mấy nấm đất cao ngang đầu, trên nóc đều có cây thiên tuế uốn éo một cách dị dạng. Tách biệt với khu bình dân và khu phú quý lại có một khu khác thập thò vài chục mô đất sè sè, nom hiu quạnh như lũ mộ vô chủ, cả năm may lắm được một lần hương khói vào dịp Thanh minh.
Em gái tôi trở thành người hướng dẫn đắc lực:
- Đám trắng toát kia là của mấy ông phó Cả, phó Hai, phó Ba. Lần này thì chắc không bị đào nữa.
- Sao? Ai đào?
- Người ta đồn các ông phó mang theo vàng xuống âm phủ nên dân đào vàng bán sới họ đào...
- Còn đám kia?
- Đám ấy của cha con ông phó Hội. Thật là lúc chết vẫn muốn lù lù trước thiên hạ.
- Cuối cùng cũng chỉ là nấm đất với một dúm xương tàn.
Tôi nói bâng quơ như một ý tưởng đến bất chợt.
- Đúng - em tôi đồng tình - Giá lúc sống các vị biết cho điều ấy nhỉ.
Ngừng một lát, em gái tôi tiếp:
- Trông thì "gia phong" thế thôi- Là em bảo cái đám mộ kia kìa. Chứ lúc hấp hối các vị mới lộ chân tướng thật, nghĩ mà rùng mình.
- Có chuyện gì thế?
- Khi cụ Hộ - bố của các ông phó - hấp hối, cụ mới đưa ra bảng phân vai. Đứa trước đây là cháu bây giờ thành con. Đứa trước đây là em thì bây giờ lên thành chú... đến nỗi đám con cháu thảm hại ấy như lạc vào mê cung ngôi bậc. Hóa ra thời mấy chục năm trước, khi các ông phó đi lính đồn trú cho Pháp thì cụ Hộ ngủ cả với mấy cô con dâu. Bà nào có mang liền lên bốt ở với chồng vài tháng...
- Mảnh đất chết tiệt! - Tôi muốn gào thật to vào bầu trời thẳm sâu, tôi muốn gào xuống tận âm ti địa ngục cho quỷ thần nghe thấy, biết rằng chẳng để làm gì.
- Thôi anh ạ! Cuối cùng họ chỉ còn lại trước cuộc đời bằng độc một mô đất. Cứ chia đều cho mỗi vị một nén.
Tôi làm theo lời em gái tôi, lòng không chút cảm xúc. Những nấm đất! Những nấm đất vô tri, lạnh lẽo. Các vị sống thế nào thì chết cũng thế ấy - Tôi nguyền thầm. Chợt tôi phát hiện có một mô đất bẹp gí ở rìa khu bình dân, sát mép nước. Tuồng như nó cố tình lút xuống để người sống khỏi ngứa mắt. Thấy tôi ngẩn ngơ nghi hoặc, em gái tôi vội nói:
- Lão Hứa đấy. Lão chết hồi năm kia sau bảy, tám năm ỉa đái ra quần. Làng không cho lão vào nghĩa địa nên lão đành tạm ở đấy. Hôm đưa tang lão, thối khắp cả làng đến nỗi ruồi xanh đuổi theo quan tài đông hơn ong vỡ tổ. Mấy ngày sau thán khí vẫn còn chưa hết khiến mấy chục con chó hóa dại một lúc rồi theo lão cả. Chỉ tội cho chị Q..u..ý Anh và cái Quý Hương...
"Quý Anh!" - Ký ức tôi bật chồm dậy như con ngựa chứng chưa thuần. Phút chốc những kỷ niệm mặn chát một thời của tôi vụt hiện lên, tươi rói như vết thương đang ứa máu.
- Cô ta bây giờ thế nào? - Giọng tôi như vọng về từ một thế giới khác.
-...Chị ấy vẫn chờ anh. Cả làng bảo chị ấy mắc nghiệp chướng do lão Hứa gây ra. Nhưng chỉ mình em biết chị ấy vẫn chờ anh...
*
Trong những câu chuyện bố tôi kể thì ông và cuộc đời xưa kia là hai nhân vật chính, đối nghịch nhau suốt cuốn tiểu thuyết đầy máu và nước mắt. Ông tổ bốn đời của tôi vốn nghèo rớt mồng tơi. Chẳng hiểu sao cụ rất giỏi chữ Nho. Chính nhờ cái vốn chữ Thánh hiền ấy mà cụ tôi, dù suốt đời cùng đinh vẫn được đám hào lý gờm nhất. Sau vụ cha con lão Lý Bá khuynh gia bại sản chỉ vì một bài thơ của cụ, thì cụ bốn đời của tôi bị liệt vào hạng nguy hiểm cho đám chức sắc từ chánh tổng trở xuống. Vậy mà cụ tôi vẫn sống ngoài tám chục tuổi, ung dung thoát tục như một ông tiên.
Ông nội tôi không thừa hưởng được số chữ của cụ tôi nên bị đám hào lý coi nhờn. Sẵn mối thù "bố nợ con trả" ông tôi bị chèn ép suốt một đời. Tuy thế ông nội tôi cũng nuôi chí lớn lắm. Ông tôi vờ cúi rạp dưới chân đám quan lại, xin được một chân trương tuần. Kỳ thực ông ngầm thu nạp khoảng hai chục thanh niên trai tráng định đánh úp nhà Chánh tổng. Việc bại lộ, ông tôi bị trói nghiến giữa đình hàng tháng trời, kỳ đến tróc hết da vì đòn mới thôi. Bị bãi chức, ông tôi quay về cày chia cấy rẽ, lòng vẫn ôm ấp một mưu đồ lớn.
Chuyện ông tôi bị lão Hứa đánh giập phổi là chuyện sau này. Chỉ biết rằng lúc hấp hối, ông tôi dặn lại truyền cho con cháu "Còn làng Đồng thì còn mối thù với thằng Hứa và con cháu hắn".
Bố tôi kể: "Chú Hai tôi chết vì thiếu đúng một bát cơm nguội. Sau này cứ vào ngày 5 tháng 3 âm lịch bố lại dậy từ nửa đêm, xúc một bát cơm nguội để trước mặt. Ông ngồi lặng hàng giờ, mặt đanh lại như sắt thép. Chú Hai tôi chết quá tang thương. Chuyện đó tôi thuộc lầu từ bé. Mãi khi đã lớn thi thoảng tôi vẫn nằm mơ gặp chú, hoàn toàn do tôi tưởng tượng lại từ lời bố tôi mô tả: "Đầu to, cao lòng khòng, toàn thân là một cái khung bằng xương". Nhưng thôi, để yên cho bố tôi kể.
Dạo ấy, bố tôi mười sáu tuổi, làm thằng ở chăn trâu cho chánh tổng. Hằng ngày bố tôi sống chết cũng phải ăn cắp được một giỏ cơm nguội cho bà nội và hai chú tôi. Hôm ấy, không hiểu sao bố tôi không về. Bà tôi và hai chú tôi chờ mãi cho đến khi chú Ba tôi chết lả trong giấc ngủ. Chú Hai tôi đói quá tính đường đi ăn cướp. Chú đi dật dờ ở chợ, mắt vờ không thấy gì. Kỳ thực chú đã liếc thấy ở dãy hàng quà có người đang đưa lá bánh vừa bóc lên miệng liếm. Chú tôi dật dờ đến gần. Vụt! Chú tôi chao mất miếng bánh của người đàn bà nọ trong nháy mắt. Thế là loạn chợ. Tiếng kêu cướp, tiếng đuổi nhau, tiếng đòn gánh nện chát chúa... Chú Hai tôi phóng vù xuống mép sông, phồng mồm nhai miếng bánh, lưng ròng máu vì mấu đòn gánh bổ dọc.
Bố tôi lại ăn cắp được cơm. Bố tôi đi tìm chú Hai. Anh em gặp nhau, chú sợ ăn đòn bỏ chạy. Bố tôi cầm bọc cơm gào đứt hơi suốt mấy làng ven sông Đáy. Hôm sau bố tôi tìm được chú Hai tôi ở Tràng Cát, một làng nổi tiếng nhiều cướp. Chú tôi ăn cắp ngô non bị đám trương tuần chôn sống. Rồi chính họ lại bới chú tôi lên - cho khỏi thối làng - bó chiếu giúp bố tôi. Bố tôi kể đêm ấy mưa bão, bố tôi vác chú Hai về đến nhà cũng vừa sáng. Sẵn có cái hố ngập nước, bố tôi thả tõm chú Hai xuống đó, mắt chú vẫn mở trừng trừng.
Lần nào nghe bố kể, tôi và đứa em út đều chứa chan nước mắt. Bố tôi bảo: "Chỉ vì một bát cơm nguội mà chú chúng mày chết. Mà bát cơm nguội ấy thằng Hứa giật đoạn trên tay tao đổ cho chó".
Sau đận ấy bố tôi hận đời, quyết chí bỏ lên rừng cũng đúng vào dịp lão Hứa được bổ làm lý trưởng. Lão biết bố tôi đi đâu nên thi thoảng lại đến hạch sách ông nội và mẹ tôi. Sau đêm chánh tổng chết hụt vì lựu đạn của du kích, lão Hứa lấy cớ điệu ông tôi ra đình, bắt xin lỗi chính quyền tề vì trót đẻ ra bố tôi. Ông tôi không nghe. Lão Hứa sai tuần đem diêm đốt nhà ông tôi. Ông tôi vác mã tấu đứng đối diện, thề sống mái một phen. Đến đêm, lão Hứa xua lệ ập đến, trói nghiến ông tôi kéo ra đình. Sáng hôm sau ông tôi chỉ còn như miếng giẻ đẫm máu. Mẹ tôi đem ông về. Mỗi ngày ông thổ ra một ít huyết tươi. Biết sắp chết, ông bắt mẹ tôi phải ghi lại lời nguyền. Mẹ tôi kể, sát ngày ông tôi về trời, ông dặn mẹ tôi sau này phải đẻ ít nhất ba thằng con trai.
*
Năm tôi lên mười, gia đình tôi đang ở thời kỳ đại thịnh. Khỏi phải nói khi có quyền trong tay bố tôi đã đè bẹp, nghiến nát đám quan lại cũ ra sao. Lão Hứa tất nhiên thuộc đối tượng đầu tiên ông nghĩ đến. Lão bị tịch thu đến cả chiếc lư hương, khu trại cũ bị san phẳng thành ruộng. Lão sống lủi thủi như một con chó lạc loài. Thằng cháu họ một thời cặp kè bên lão cũng quay lưng lại lão. Để nịnh bố tôi, ông Tư Vê đã ỉa vào cửa nhà lão cả đống tướng.
Một hôm, dạo đó tôi mười hai tuổi, tôi bắt gặp lão Hứa bới trộm khoai lang. Lão địa chủ cũ nhìn trước nhìn sau rồi chùi củ khoai vào vạt áo, đưa lên miệng nhai ngấu nghiến. Lão đói. Con cái lão cũng bị bỏ đói. Sau Quý Anh, lão còn bắt vợ rặn cho lão thêm một đứa nữa đặt tên là Quý Hương. Quý Hương giống chị như hai giọt nước, đẻ cùng tháng với em út tôi. Thấy bảo hôm đón con bé, lão Hứa định ngầm bóp chết. Lão cần có đứa con trai để hy vọng đến ngày nào đó gia thế nhà lão lại phất lên. Chờ đúng lúc lão Hứa đang phồng má trợn mắt, tôi hét lên:
- Có thằng ăn trộm!
Lão Hứa suýt ngã vì sợ và xấu hổ. Lão nhè vội miếng khoai, xoa tay vào áo, dùng chân lấp lại chỗ đất lão vừa bới rồi quay lưng định lủi mất. Hình ảnh chú tôi chết đói, hình ảnh ông tôi chết vì đòn như kêu gào tôi trả thù. Tôi muốn nhân cơ hội này đâm cho lão Hứa một nhát. Có lẽ bộ mặt tôi lúc ấy gớm ghiếc lắm nên lão Hứa co rúm lại.
- Lão Hứa!
Lão địa chủ xưa kia đổ khuỵu xuống.
- Lão có biết lão mắc tội gì không?
- Cậu Tư ơi, tôi đói quá!
- Lão đói nhưng lão chưa chết. Còn chú ta, ông ta đều chết về tay lão thì lão tính sao?
Lão Hứa mếu xệch miệng. Tôi tiếp:
- Chỉ vì một bát cơm nguội mà chú ta thành ma đói, lão có nhớ không?
- Tôi nhớ.
- Tại sao lão ác thế?
- Tôi van cậu Tư. Thì ông nhà đã đòi đủ ở tôi rồi mà!
- Chưa được bao nhiêu. Hôm nay lão phải trả nốt.
Tôi tiến lên, gí thanh nứa vạt đầu vào cổ lão Hứa. Lão địa chủ xưa kia vội đưa tay túm ngang chiếc que.
- Kìa cậu Tư, tôi cắn rơm cắn cỏ lạy cậu. Cậu thử hỏi ông nhà xem, có phải có lúc tôi đã tử tế với ông nhà không?
- Còn ông ta và chú ta, lão tử tế thế đấy à?
- Cậu Tư ơi! - Lão Hứa cuống quýt đẩy thanh nứa đang bị tôi ấn mạnh thêm - Cậu cứ lớn lên đi cậu sẽ hiểu tôi chả là cái gì trước số phận, trước thời thế. Tôi có trực tiếp đánh ông cậu đâu. Tôi có trực tiếp chôn sống chú cậu đâu. Cuộc đời cũ nó ắt phải thế.
Tôi không đủ sức để hiểu những lời lão Hứa nói. Đại loại lão muốn bảo tôi rằng việc làm của lão xưa kia với việc bố tôi tịch thu tài sản của lão, cả hai việc ấy đều do cuộc đời muốn thế. Tôi còn đang do dự không biết có nên lấy của lão một tí máu cho mát lòng ông và chú tôi, thì từ đâu Quý Anh hớt hải chạy ra. Thấy cảnh đó mặt nó cắt không còn giọt máu. Trông thấy con, lão Hứa vội kêu lên:
- Quỳ xuống đi con! Quỳ xuống xin cậu Tư và ông bên nhà đi con.
Quý Anh từ từ quỳ xuống, hai tay chắp trước ngực. Trông nó đối nghịch gay gắt với lão bố phàm tục của nó. Sau này mỗi lần bắt gặp một tiên đồng trong các cuốn tiểu thuyết, tôi thường nhớ đến Quý Anh ở giây phút ấy. Khuôn mặt nó trong veo, cặp mắt trong veo với hai lọn tóc lắc lư bên má. Xin đừng nghĩ đơn giản về trái tim cậu bé tuổi mười hai như tôi. Lòng tôi sóng sánh như bát nước đầy... Tôi để tuột thanh kiếm tráng sĩ vì một lời khẩn nguyện dâng lên từ mặt đất: "Cậu và tôi... và những mùa vàng rực nắng, chúng ta cùng là con đẻ của một cuộc đời không thù hận".
Hẳn lúc ấy, tôi chỉ cảm thấy có cái gì đó khác thường đã xảy ra trong trái tim bé con của tôi. Nhưng khi tôi đã bắt đầu hiểu cuộc đời, tôi cứ nhớ có một lời khấn thầm như thế ngấm vào tôi. Có thể nó đến bằng giấc mơ thanh sạch ở tuổi chớm lớn. Nhưng bao giờ lời khấn thầm ấy cũng đi cùng hình ảnh Quý Anh quỳ trước tôi từ buổi đấy. "Cậu và tôi..." lẽ nào điều ấy đã xảy ra khi vào một đêm nào đó tôi úp mặt lên gối khóc nức nở, quằn quại trong nỗi ân hận đành chịu mang tội với ông và chú Hai tôi.
(CÒN NỮA)




Comments