top of page

50 NĂM VĂN HỌC TIẾNG VIỆT HẢI NGOAI 1975-2025

  • Writer: ductungducnguyen
    ductungducnguyen
  • Jun 3
  • 20 min read
ree
ree
















tác giả: NGUYỄN ĐỨC TÙNG

50 NĂM THƠ VIỆT HẢI NGOẠI

(trích vài đoạn từ bài được lên trang mạng www. gio-o . com)

TỰ DO CÙNG NGÔN NGỮ

50 NĂM VĂN HỌC TIẾNG VIỆT HẢI NGOAI 1975-2025

.

1. BỐI CẢNH LỊCH SỬ

Cộng đồng người Việt hải ngoại hình thành từ sau tháng 4 năm 1975, khi Việt Nam Cộng Hòa sụp đổ. Đợt di tản đầu tiên gồm hàng chục ngàn người, quân nhân, viên chức, dân thường, đủ mọi lứa tuổi, tầng lớp. Suốt những năm dài sau đó, người Việt vẫn tìm cách bỏ ra đi, mà đỉnh cao là phong trào thuyền nhân những năm 1980. Càng về sau, đặc biệt sau những đợt thanh lọc của Cao ủy tị nạn Liên Hiệp quốc, năm 1990, trong khi số người vượt biển giảm đi, thì những hình thức ra đi khác lại tăng lên: ra đi có trật tự, HO, tị nạn giáo dục, tị nạn kinh tế, và nhiều hình thức khác. Nếu quan niệm một cách rộng rãi, từ năm 1975, phong trào bỏ nước ra đi chưa bao giờ dừng lại. Đó là tình trạng kết hợp giữa lưu vong và di dân. Hiện nay người Việt có mặt trên hầu hết các nước hay các thành phố trên thế giới, từ Bắc Mỹ đến châu Á, từ châu Âu đến châu Phi. Cấu trúc vô cùng phức tạp: người đi từ miền Nam, người đi từ miền Bắc, người tị nạn, người du học. Riêng tại Bắc Mỹ, Úc và Tây Âu, thành phần trung tâm của các cộng đồng là những người tị nạn, các thuyền nhân và con cháu họ. Khi mở rộng ra đến Đông Âu, Đông Nam Á, Nhật, Hàn, Đài Loan, cấu trúc ấy thay đổi và không ổn định.

Lưu vong vừa là hiện tượng xã hội vừa là một hiện tượng văn học. Trong khi người Việt hải ngoại là một cộng đồng được xác định về mặt địa lý, ở ngoài đất nước, thì tiếng nói của họ không chỉ phản ảnh đời sống của người Việt tại hải ngoại mà còn là tiếng nói của người dân bản địa và của người Việt trong nước, của dân tộc.

2. BA THỜI KỲ

Thơ là một diễn trình: diễn trình năm mươi năm. Tôi tạm thời phân chia thành ba giai đoạn hay thời kỳ văn học. Việc phân chia này chỉ có tính cách quy ước, vì các ranh giới giữa chúng không rõ ràng. Sau này hy vọng các nhà nghiên cứu văn học sử sẽ có cách tiếp cận khoa học hơn.

Thời kỳ thứ nhất: 1975-1989. Khởi đầu bằng sự sụp đổ của miền Nam dẫn đến dòng người di tản tháng 4 năm 75 và phong trào vượt biển tìm tự do bắt đầu từ cuối những năm 1970. Về mặt văn học, đây là giai đoạn của văn học lưu vong, chấn thương, hoài niệm. Về phương pháp sáng tác trong thơ, chịu ảnh hưởng của khuynh hướng lãng mạn và hiện đại của miền Nam. Về hệ tư duy, tiền hiện đại và hiện đại. Về hình thức của thơ hầu hết là thơ có vần với sự phát triển ban đầu của thơ tự do.

Thời kỳ thứ hai: 1989-2000. Đánh dấu bằng sự sụp đổ của Liên xô và các nước Đông Âu, trong khi phong trào vượt biển lắng xuống thì hiện tượng vượt tường của đồng bào miền Bắc từ Đông Âu qua các nước tự do Tây Âu tăng lên. Cùng thời gian, chính sách “đổi mới”của nhà nước Việt Nam làm bùng lên trong một thời gian ngắn nền văn chương cởi mở, xem lại, tự vấn và phản kháng, bắt đầu bởi tờ Văn Nghệ dưới sự lãnh đạo của Nguyên Ngọc. Thời kỳ ra đời của các tác phẩm nổi tiếng của Dương Thu Hương, Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Bảo Ninh, Trần Mạnh Hảo, Nguyễn Khắc Trường, Nguyễn Duy. Ở hải ngoại, thơ Việt Nam bước vào thời kỳ mới, chuyển sang khuynh hướng hiện thực, với hệ tư duy ngày càng mang tính hiện đại và những dấu hiệu đầu tiên của chủ nghĩa hậu hiện đại. Về hình thức, thơ tự do, trường ca và các bài thơ dài ngày một phát triển.

Thời kỳ thứ ba: từ năm 2000 đến nay. Khoảng những năm 2000 mở đầu với nhiều biến động trên thế giới, các cuộc xung đột mang tính quốc gia và khu vực, sự va chạm giữa hai hệ thống dân chủ và độc tài, sự trở lại của chiến tranh lạnh. Sự phát triển về công nghệ vượt bậc, đánh dấu bởi một nền văn học được truyền đi trên mạng internet, smartphone. Văn học liên mạng ra đời. Sau hai đợt thuyền nhân những năm 80 và tường nhân những năm 90, người Việt tiếp tục bỏ nước ra đi với các hình thức di dân mới, tới các nước châu Á như Nhật, Đài Loan, Đại Hàn, Thái Lan, Cambodia. Việc giao lưu giữa trong nước và ngoài nước, giữa các nước nơi người Việt định cư ngày càng tăng, mang lại những nội dung và phong cách mới của văn học và thơ ca, hiện nay không thể dễ dàng tổng kết được. Đặc điểm của thơ thời kỳ này là sáng tác hậu hiện đại, với hệ tư duy hậu hiện đại. Về hình thức, thơ tự do chiếm đa số. Về chất lượng, người làm thơ và tác phẩm ngày càng đông đảo thì chất lượng ngày càng kém và pha tạp. Các nhà phê bình và các tờ báo có uy tín ngày càng đánh mất tiếng nói của mình. Tuy nhiên trong đám cỏ dại vẫn có những bông hoa. Ngoài ra các tác giả trong nước không thể in trong nước được đều có thể đăng trên báo giấy, báo online, hoặc in sách ở hải ngoại, làm cho việc định nghĩa vùng văn học ở hải ngoại trở nên rộng rãi và khó khăn hơn.

3. TÂM THỨC LƯU VONG

Trong thời kỳ ban đầu, tâm thức lưu vong chính là lòng hoài niệm:

Chú nào ngồi hiên nhà ta chiều nay

Nghe mưa Sài gòn rạt rào thơm mát

Sau một ngày nắng lóa chín tầng mây

Những mái tôn cười ran hạnh phúc

Thơ Cao Tần, nụ cười héo hắt, tình ý dạt dào. Đây là đối thoại lạ lùng, giữa một người từ quá khứ, xa, và một người trong hiện tại, gần, xuyên không gian, thời gian. Và hình như muốn xuyên qua chia cắt hận thù. Nghĩ về quá khứ, những ngày hạnh phúc, giúp con người tăng cường lòng tự trọng, nâng cao bản lĩnh, mang lại nhiều can đảm để đối phó với sóng gió thực tại. Nhờ vào cảm giác về tính mục đích của đời sống, trên hành trình đi tìm ý nghĩa cuộc sống. Khi bạn nghĩ về cơ cực của người thân ở quê nhà, sự hy sinh của cha mẹ thời thơ ấu, bạn tìm ra ý nghĩa của sự tự do. Bạn càng biết chắc về mục đích đời sống, càng sở hữu nhiều ý nghĩa, bạn càng bớt cảm giác hoang mang, thất vọng, hoài nghi. Thật ra, hoài niệm chỉ là một trong nhiều khuynh hướng, thậm chí không phải là khuynh hướng quan trọng nhất, của thơ hải ngoại.

Tìm tôi đèn thắp hai hàng

Lạc nhau cuối phố sương quàng cổ cây

Ngỡ hồn tu xứ mưa bay

Tôi chiêng trống gọi mỗi ngày mỗi xa

Vần điệu, tiết tấu, nhịp đi, cách dừng lại, cách ngắt dòng mang theo các nguyên mẫu ký ức. Thơ lục bát có thể được viết rất mới như Du Tử Lê, hoặc Cung Trầm Tưởng, Viên Linh, Huy Tưởng. Hoài niệm là chu kỳ, và trong thơ, chu kỳ tựa lên nhạc điệu. Thơ hải ngoại, dù đó là thơ lưu vong của người tị nạn, hay thơ của di dân về sau, đều mang tâm sự của kẻ sống xa quê nhớ nước. Lòng hoài niệm có thể có tác động âm tính, gây nên buồn rầu u uất, ngăn cản con người tiến về phía trước, nhưng cũng có thể tác động dương tính: giữ thăng bằng tâm trạng, gây cảm giác phấn chấn, kích thích năng lực sáng tạo, tăng cường khả năng liên lạc, lòng yêu làng xóm, lòng trung thành, tình cảm thủy chung.

Mai Thảo vượt biển:

Biển sao sáng xuống lòng tối thẳm

Đụng cây neo lạnh buốt bên mình

Mới nhớ mình ngồi đó suốt đêm qua

Giữa nghìn con sóng tới

Giữa ngần ấy sóng xa

Giữa đất tận trời cùng giữa chỉ một mình ta

Trong khi con người tìm cách xuyên qua các biên cương, đi tìm Cái Khác, họ cũng mở rộng thêm khái niệm quê hương. Khái niệm quê hương của người Việt sống xa đất nước là nhân phẩm và khoan dung. Một cách lạ lùng, trong trạng thái tha hương, thơ tự nguyện trở thành một phần của cuộc sống, kẻ ghi chép của lịch sử, khi lịch sử không cần đến nó và thôi không tồn tại nữa. Thơ hải ngoại, vì tính chất tình nguyện ấy, mang trong nó số phận và sứ mệnh của lưu vong. Số phận, nên nó là thơ trữ tình, sứ mệnh, nên nó là thơ chính trị. Trong khi tự do cá nhân là thành tựu lớn lao mà nhân loại đạt được những thế kỷ vừa qua, thì cái giá phải trả của chủ nghĩa cá nhân không ai được quên: chỉ có tôi là trước tiên, người khác là thứ yếu, cộng đồng là thứ yếu, sự liên kết giữa các cá nhân là thứ yếu. Lưu vong, nếu là việc rời xa bản quán để tìm đến nơi tự do, lại chính là một cố gắng làm ngược lại với hiện tượng tách rời. Lưu vong vì tự do là cố gắng chống lại các trấn áp và chia rẽ, sự chia cắt con người khỏi chỗ đứng của họ, mảnh đất của họ, tôn giáo của họ, nơi thờ phượng và tình yêu của họ. Cảm giác thuộc về một tập thể là cảm giác tin cậy ấm áp, cần thiết cho sức khoẻ thể chất, tâm thần và tinh thần. Ý nghĩa của lưu vong vượt ra ngoài khả năng trả lời của một cá nhân, một tập thể, thậm chí của nhiều thế hệ. Chúng ta chỉ có thể trả lời câu hỏi đó của đời sống, câu hỏi về ý nghĩa, bằng chính đời sống của chúng ta, và vì thế, bằng cách chung thủy với các lý do đã làm phát sinh quá trình tị nạn, và kéo theo nó, được nâng đỡ trên vai nó, quá trình di dân những năm về sau, của chúng ta. Lưu vong còn là một hiện tượng ngôn ngữ, cũng rắc rối như một vấn nạn quốc tịch. Tôi nối kết, do đó tôi tồn tại. Tan rã là đứt mạch các chuỗi nối kết. Tôi không còn thuộc về ai.

mình em một ngôn ngữ

mình em một màu da

mình em một màu mắt

mình em một lệ nhòa

Hãy tưởng tượng ra em

ở nơi không định tới

Đó là đoạn mở đầu của bài thơ Hãy tưởng tượng ra em của Trần Mộng Tú, viết ngay sau tháng 4 năm 1975. Việc chọn dùng câu ngắn, có vần, lặp lại, làm cho bài thơ tựa ca khúc, đồng thời như lời kể. Tác giả giữ được sự thăng bằng giữa xúc động và lý trí, giữa ám ảnh quá khứ và cuộc sống hiện tại. Cuộc sống hiện tại có phải là một lựa chọn may mắn không? Lưu vong có phải là một lựa chọn? Rõ ràng là thơ của người nữ viết cho người nam, chàng đâu đó, sống hay chết, tự do hay tù tội. Tình yêu của người nữ trên xứ sở mới là sự phản kháng hai lần đối với cuộc đời, số phận của một người Việt lưu vong và số phận của người phụ nữ đánh mất tình yêu, trong cuộc chiến tranh tàn bạo. Bài thơ vừa độc thoại vừa đối thoại, kêu gọi đáp ứng. Trong khi đó, từ một nơi khác, trên quê hương, nhưng bên ngoài xã hội, một người đàn ông:

Đất lạ, người ta sống thế nào?

Trong lòng có sáng những trăng sao,

Có buồn bã lúc mùa trăn trở,

Có xót thương người qua biển dâu?

Những câu thơ của Tô Thùy Yên tôi đọc trong năm tháng xa lìa đã đánh thức, xô dạt, làm va đập trong tôi tình yêu thơ ca, tưởng đã chết, tình yêu đất nước, tưởng đã vô nghĩa. Tình yêu đất nước?

Những câu thơ nhiều hình ảnh mà ít ẩn dụ.

Nhưng thơ lưu vong không phải chỉ là thơ miền Nam nối dài. Từ trại tị nạn Hồng Kông, rất sớm, và sau bức tường Bá Linh, công đoàn Đoàn Kết, cách mạng nhung Tiệp Khắc, và nhiều sự kiện chấn động khác ở châu Âu, thơ và văn học hải ngoại còn được bổ sung bằng những cây viết tài hoa ra đi từ miền Bắc, với những quá khứ có thể khác, tâm sự khác, và tất nhiên, với văn phong khác: như Lâm Quang Mỹ, thơ của hội nhập, Thế Dũng, thơ của phản kháng, Đỗ Quyên, thơ của hồn Việt viễn xứ, như Châu Hồng Thủy, Đỗ Quang Nghĩa và nhiều người nữa.

Chữ lạ, ngang tàng, Thế Dũng:

Dăm ngôi mộ trong hồn. Hoa héo úa

Âm ti cười văng vẳng tiếng đa đoan

Mây như khói tóc ai chiều thu xõa

Liệm làm sao? Dĩ vãng chửa tro tàn!

Khả năng phản ảnh hiện thực thể hiện trước hết ở độ gần của tác giả và chiến tranh. Nhà thơ không có khoảng cách xa hay độ lùi thời gian an toàn có thể bị tổn thương tâm lý. Trong tình huống nghiệt ngã, văn chương không thể được đọc và viết như cũ, chúng phải được đọc như lời kêu thét của nạn nhân, lời khai của kẻ bị lăng nhục, như hiện thực bị bóc trần. Thanh Tâm Tuyền, trong trại cải tạo:

Tuột dốc té nhào trên hẻm núi

Chết điếng toàn thân trong giây lâu

Mưa rơi đều hạt mưa phơi phới

Ngày đang tàn hiu quạnh rừng sâu

(Thanh Tâm Tuyền, Thơ ở đâu xa, 1990)

Cuộc nội chiến hai mươi năm chưa bao giờ rời bỏ chúng ta, sự chia rẽ dân tộc chưa được hàn gắn, dù hôm nay có nhiều người từ chối sự thật ấy. Người lính nhớ lại cuộc chiến mà họ thua trận:

Trường Sơn giờ đây ra sao nhỉ

đất nước còn đó cỏ hoa tươi

An Lộc liền tên cùng Quảng Trị

hỡi anh em vinh hiển đời đời

nhờ mi An Lộc thành bất tử

nhờ mi tên Quảng Trị vang rền

bút thép, mực máu, trái tim lửa

còn ghi tên lịch sử anh em

(Đỗ Quý Toàn, Đọc Dấu binh lửa của Phan Nhật Nam)

.

(ngưng một đoạn)

.

.

6. SỰ PHÁT TRIỂN CỦA THỂ LOẠI

Các thể loại trong thơ hải ngoại được phát triển. Trong khi thơ có vần, thơ bảy chữ, thơ lục bát tiếp tục được sáng tác thì thơ tự do ngày một trở thành thể loại quan trọng nhất. Hình thức và thể loại của thơ giúp định hình các ý tưởng, sắp xếp và trình bày các ý nghĩa. Thơ là ngẫu hứng và phá cách, là sự buông thả của cảm xúc, nhưng thơ cũng nối kết các hiện thực, mang con người trở lại với nguồn gốc.

Nhiều người làm thơ Haiku như Thi Vũ, Vũ Hoàng Thư, Pháp Hoan, gây được tiếng vang.

Trên phố xá đông người

cơn mưa chiều thứ bảy

thấm dần vào áo tôi

(Pháp Hoan, Vancouver 03/2024)

Đặc biệt thể thơ dài, trường ca, hay trường thi, là một nhánh riêng, hứa hẹn. Điểm riêng biệt của trường ca là biết suy nghĩ. Tất nhiên đó không phải là suy nghĩ theo kiểu lý trí thuần túy, kiểu thơ trí tuệ. Đó là một hình thức suy nghĩ bằng hình tượng, toàn bộ cảm xúc thân xác.

Chính vì vậy trường ca đi xuyên qua vật thể, tâm hồn, lý trí hay tinh thần. Theo sau các bài thơ dài của Cao Đông Khánh, có Du Tử Lê với trường ca Mẹ về biển Đông, một thi pháp gần văn xuôi, một thành tựu nghệ thuật:

tôi tìm ra nhà quàn dễ hơn mình tưởng

ngôi nhà trắng. Những chiếc ghế sắt cũng mầu trắng

đường xe chạy uốn cong hình móng ngựa khoảng sân trong có nhà bán

hoa,

mấy tháng trước còn xanh những cây phong

nay lốm đốm đỏ

vòi nước từ chiếc bồn trước cửa toà nhà chính

phun hoài như thế chẳng biết đã bao năm

buổi sáng, ngồi nép trên chiếc ghế sắt, tôi nói với Sơn

về sự đổi mầu của lá phong

khu rừng đỏ. Những ngày học ở Indianapolis. 1969

ly cà phê. Điếu thuốc rút từ bao Winston của Sơn

mẹ tôi nằm trong chiếc quan tài mầu dưa úa. Các chị tôi nhắm mắt

chọn cho dù giá tiền khá đắt

Tiếp theo sau, hay cùng thời, nhiều người khác viết trường ca, như Trần Nghi Hoàng, với chất trữ tình bi phẫn, Đỗ Quyên, hậu hiện đại, với Lòng hải lý, Đống chữ, Ba người nữ một mùa thu, gần đây nhất là trường ca Quần-đảo-tráo-tên. Thơ anh tiêu biểu cho thi pháp hậu hiện đại- collage:

chia 50 con theo mẹ lên non

làm gì ra sao trường-ca-ca đang lu bu không đủ thời gian bàn thảo

50 con theo cha xuống bể

gây dựng duy trì bảo vệ cương vực hải đảo đại dương

số con cái này hẳn sức dài vai rộng thông lẹ kiên cường

hậu sinh hòa hợp hòa giải Binh chủng đặc công nước và Lực lượng người nhái cũng chỉ xách phao bơi theo mệt nghỉ

Phật độ lãnh hải cơ ngơi mọi sự khá chuẩn và ổn

suốt mấy ngàn năm ngót trăm triều đại hậu vua Hùng

phỉ phui xui là mới gần đây thôi từ nửa sau thế kỷ trước thiên hạ tranh chấp mấy cái bãi rạn đá chìm phân chim còn thúi hoắc hóa thành mỏ vàng hơi

những giếng dầu trụ vững giữa khơi xa

Thế Dũng, từ nước Đức, viết rất, dài say đắm dữ dội về các vấn đề đất nước và người Việt lưu vong. Nguyễn Đức Tùng với tuyển tập Bầy Chim Di Trú, xuất bản ở Cali mùa hè năm 2023, là tuyển tập bảy trường ca dựa vào các nguồn cảm hứng lịch sử đương thời với tư tưởng yêu nước: sự kiện Đồng Tâm, đại dịch Vũ Hán, người tù lương tâm Phạm Đoan Trang, chiến tranh Aphganistan, tháng Tư, các đề tài dân tộc khác.

Cuộc chiến tranh với nông dân: không bắt tù binh

Đây là thời gian

Tất cả sẽ bắt đầu

Chúng đánh vào dân tộc những đòn đau nhất

Vào mùa dịch Vũ Hán lấp ló chân trời

Khi thế giới hoảng loạn

Đánh vào tim, đánh vào ngày Tết

Vào ngày giỗ chạp, tiết thanh minh

Vào cô Kiều đi xem lễ hội

Vào ngày rằm trăng sáng mênh mông

Đánh vào dĩ vãng chiến tranh buồn thương, dĩ vãng ngọt ngào

Trên bãi bồi, chim chào mào, tu hú

Đánh vào mùa lúa mùa khoai mùa bắp

Vào người nông dân bán mặt cho đất bán lưng cho trời

Đánh tan tác tình nghĩa cha ông

Sau chiến tranh, chúng ta lại có hoà bình

Sau những năm mất mùa, chúng ta lại được mùa

Anh mất em, anh lại trở về

Tình yêu bén lửa

Trong mùi phù sa sông Hồng

(Bài Thơ Đồng Tâm)

Đó là sự khai phá một thể loại ít được biết đến trước đây, có khả năng nói về đề tài dân tộc, lịch sử. Trong khi đó, thơ xuôi là một khuynh hướng phát triển mạnh mẽ hơn cả trong thơ đương đại thế giới, toan tính xóa nhòa ranh giới giữa văn xuôi và thơ, giữa các thể loại truyện ngắn, tùy bút, kịch, thơ, tiểu luận. Các tác phẩm của Anne Carson hay Lydia Davis, lừng danh, không thể xếp loại dễ dàng là thơ hay truyện.

Thơ Tân hình thức: những người giới thiệu và xiển dương thơ Tân hình thức, đặc biệt nhà thơ Khế Iêm, đã làm dấy lên một phong trào đổi mới hình thức, khoảng những năm đầu thế kỷ 21 ở California, lắng xuống một thời gian, rồi hồi phục trở lại khi được giới thiệu rộng rãi trong nước, với sự ủng hộ mạnh mẽ của nhiều nhà thơ trẻ và tài năng, nhất là những nhà thơ quy tụ quanh tạp chí Sông Hương, và đồng thời , trên tờ báo giấy cũng do Khế Iêm chủ trương, ra hai tháng một kỳ.

Con mèo đen có linh hồn và chiếc

xương sườn của tôi, mỗi buổi sáng thức

dậy không bao giờ rửa mặt, mỗi buổi

sáng thức dậy không bao giờ đánh răng;

con mèo đen có đôi mắt bằng đất

sét, mở ra và nhắm lại, hay cứ

mở ra và không bao giờ nhắm lại

Tôi nghĩ trường ca, thơ xuôi, thơ tân hình thức, xét về thể loại và đề tài, có thể đem đến những đóng góp mới cho thơ Việt hôm nay, hải ngoại và trong nước. Trong khi đi tìm cách diễn đạt cho những cảm xúc và sự thay đổi nội tâm, nhà thơ đi tìm từ ngữ mô tả hiện thực đã trải qua và thế giới thực tại, các từ ngữ ấy bắt buộc có tính cụ thể vì chúng xuất phát từ đời sống, các chữ ấy lại được gọi về, sắp xếp trong các quy luật của vần điệu, âm nhạc, tuy không chặt chẽ như trong các ca khúc nhưng cũng đủ để tạo lập nhịp điệu riêng biệt cho từng bài thơ nhằm phản ánh hiện thực thông qua hình ảnh. Bởi vì sự thật trong thơ ca là một thứ biểu tượng. Con người trải qua mất mát được an ủi bằng chính ngôn ngữ của sự mất mát. Khi một người thân bị mất, chính các hình thức tang lễ, tức là các pháp cách giúp cho sự mất mát ấy được thăng hoa, được chiếu đi chiếu lại trong tấm gương của ý thức và vô thức. Tang lễ không làm một người chết sống lại, cũng như thơ ca không làm cho một quê hương đánh mất được hồi sinh trở lại, tuy vậy sự đánh mất ấy, sự xa lìa ấy, bằng tang lễ, bằng thơ ca, trở thành một kinh nghiệm sống động, trở thành một bài ca được hát đi hát lại nhiều lần, xoa dịu, sưởi ấm, làm cho sự đánh mất trở nên chịu đựng được.

Vì vậy nghi thức là một liệu pháp, thơ ca là một liệu pháp. Chính là bằng nghi thức mà con người được tự do. Mối quan hệ giữa các nhà thơ hải ngoại với nền văn học trong nước được biểu hiện ở các mức độ khác nhau, tùy hoàn cảnh của họ. Những nhà thơ hải ngoại kế thừa truyền thống văn học miền Nam, những nhà thơ hải ngoại kế thừa truyền thống miền Bắc, những người vượt tường ở Đông Âu, những người ra đi khi đã lớn, học hành trong nước sau năm 1975, và những người viết sinh ra và lớn lên ở hải ngoại. Những nhóm người này, được quy định bởi lịch sử, sẽ có những tâm thức và ứng xử khác nhau. Một mảnh đất chung dành cho họ là mảnh đất được vun xới bởi thơ trữ tình. Khi cái tôi trữ tình lên tiếng, nó được dễ dàng chia sẻ.

Tôi biết Czeslaw Milosz nhà thơ giải Nobel sống lâu ở Hoa Kỳ, dạy học ở đó, viết gần một nửa số thơ của ông bằng tiếng Anh, nhưng người Ba Lan vẫn xem ông nhà thơ Ba Lan. Nếu so sánh cộng đồng người Việt hải ngoại và những cộng đồng lưu vong khác như Trung Hoa, Triều Tiên, Do Thái, Ả Rập hay Ukraina, về mặt văn học, qua các tác phẩm được dịch từ ngôn ngữ mẹ đẻ sang tiếng Anh, có thể nhận thấy một số khác biệt sau đây. Mặc dù những người tị nạn hay lưu vong đến từ các đất nước ấy vẫn sử dụng ngôn ngữ riêng của họ, các tác giả góp phần rất lớn vào việc dịch từ ngôn ngữ của họ sang tiếng Anh. Tôi nhận thấy trong những bài thơ dịch sang tiếng Anh có vai trò tham gia của tác giả.

Các thế hệ tiếp nối của các dân tộc lưu vong có những khoảng cách đối với nhau không quá xa như ở người Việt. Ở người Việt có một khoảng cách quan sát được giữa những người tham gia chiến tranh, bị tù đày ở và những người hoặc sinh ở hải ngoại. Ở thế hệ thứ hai và thứ ba này, quá trình hội nhập xảy ra mau lẹ nhưng đột ngột, cắt đứt với truyền thống. Những thế hệ về sau thậm chí không còn tự xem mình là người Việt nữa.

Dù sao, thơ trữ tình được viết bằng thể thơ cổ điển vẫn sống:

Ở đây sầu đã tan tành

Người đi chưa đủ về quanh chiếu ngồi

Viên Linh

khói hương hương khói nhạt nhòa

nhòa nhạt hương khói vẫn là khói hương

khóc người, chưa dám nhớ thương

nhưng đã dám đốt nỗi buồn làm hương

Luân Hoán

Thơ tình hải ngoại kế tiếp truyền thống của thơ tình miền Nam, nhưng ở một số tác giả mới viết gần đây, cũng như những tác giả đến từ Đông Âu các ảnh hưởng khác của thơ tình miền Bắc không phải là không đậm đà.

Trong thơ có một khái niệm gọi là sự thân mật. Đây là sự gần gũi có tính riêng tư của nhà thơ đối với các sự vật được mô tả, và trong trường hợp thơ tình, các bài thơ đều có tính chất tương giao giữa người và người, là bài ngợi ca, là khúc nhạc yêu đương say đắm, là lời oán than, nỗi tiếc thương ngậm ngùi hay đau đớn. Những phẩm chất riêng của tình yêu nam nữ, tâm hồn, thể chất, tinh thần, luân lý, tâm lý, hoàn cảnh lịch sử, tất nhiên cũng là đối tượng của thơ tình. Tình dục là một đề tài mới mẻ trong thơ hải ngoại. Trong thơ tiền chiến và thơ cả hai miền Nam Bắc trước 1975, có thể nói trong thơ không có tình dục. Đây là điều đặc biệt: vì trong truyện ngắn và tiểu thuyết thì chúng có.

Thơ tám chữ mà mới như Vũ Quỳnh Hương.

Hãy tới hãy tới hãy tới Halfmoon Bay với anh

Ở một nơi trăng biếc gió xây thành

Ðêm và mộng và anh cùng ước hẹn

Ở Halfmoon Bay màu trắng rất xanh

Chúng ta biết tình yêu có thể phải thay đổi, có lúc bùng lên có lúc nhạt đi, rằng thời thế có thể làm cho tình yêu tan vỡ, rằng giá trị của một mối tình có thể không thể nào minh chứng được, rằng sự chung thủy của tình yêu là đáng nghi ngờ, rằng đau thương của nó là vô hạn, mặc dù thế tôi tin đó là thứ tình cảm mãnh liệt lâu bền nhất, quyết định nhất số phận một người, hạnh phúc của người đó, và do đó mà ở mức độ tập thể, là cái quan trọng nhất của một lịch sử, một cộng đồng, là dấu vết để lại trên đường đi của một giống người.

Các yếu tố thuộc về khuynh hướng làm cho thơ hải ngoại trở thành một nền thơ cách tân gồm có: yếu tố nữ quyền, thái độ chính trị, yếu tố tình dục, chủ nghĩa hậu hiện đại, thơ tân hình thức, sự dung hợp các luồng ngôn ngữ Nam Bắc, trong ngoài, tiếng Việt và sinh ngữ, sự đưa vào được ở những mức độ khác nhau không khí sống động của một đời sống bên ngoài biên cương tổ quốc, sự tiếp tục làm mới do ảnh hưởng của văn chương thế giới.

Kế thừa truyền thống của chủ nghĩa hiện đại trong thơ miền Nam trước đây, thơ hải ngoại mang tính chất pha trộn của chủ nghĩa lãng mạn tiền chiến, chủ nghĩa hiện đại, phương pháp sáng tác hiện thực, trong những năm đầu tiên. Kể từ cuối thế kỷ 20, chủ nghĩa hậu hiện đại hiện diện trong sáng tác của các nhà thơ hải ngoại và sau đó lan tỏa vào trong nước, saumột thời kì ngắn bị chê bai dữ dội, về mặt học thuật. Tuy nhiên xét về mặt học thuật, do trong nước có nhiều điều kiện hơn, nhiều nhà nghiên cứu chuyên nghiệp hơn, một khi được chấp nhận hoặc ít nhất không bị nhà nước cấm đoán, chủ nghĩa hậu hiện đại liền được nghiên cứu một cách hệ thống. Trong khi đó, đồng thời và có thể trước đó, phương pháp sáng tác hiện thực kỳ ảo (magic realism) được giới thiệu trong nước sớm hơn với tiểu thuyết của nhà văn lừng danh Garcia Marquez. Nhiều người không nhớ rằng thực ra nhiều năm trước đó, chủ nghĩa này, trong văn học châu Mỹ la tinh, còn được giới thiệu bởi dịch giả Đỗ Khánh Hoan, người dịch Tagore trước đây ở miền Nam. Các dịch phẩm của Đỗ Khánh Hoan không được mấy người biết.

.....

(chưa chấm dứt)

(mời đọc toàn bài viết tại đây: https://www.gio-o.com/GioO10Nam/50NguyenDucTung.htm

.

Nguyễn Đức Tùng sinh tại Quảng trị, lớn lên đi học tại Quảng trị và Huế.

Thuyền nhân. Định cư ở Canada. Tốt nghiệp bác sĩ y khoa tại đại học McMaster University, thường trú các bệnh viện Toronto.

Hiện sống và làm việc tại Vancouver.

Có bài đăng trên Da Màu, Diễn đàn thế kỷ, Văn Việt, Việt báo, Ngôn ngữ, Asymptote.

Nhà văn Nguyễn Đức Tùng sáng tác và viết nhiều thể loại. Riêng trong lĩnh vực phê bình văn học chứng tỏ là người có cơ hội, có khả năng hấp thụ các luồng văn học thế giới, và mang về cho mình một nguồn trí thức riêng đã tiêu hóa để áp dụng lên thế giới chữ nghĩa Văn Chương Tiếng Việt. Nguyễn Đức Tùng khi soi tác phẩm anh có khả năng đọc, mổ xẻ, tổng hợp, và phát triển được một con đường phê bình bắt sao và tóm gọn những điểm then chốt của tác phẩm, tác giả, của khuynh hướng văn học, trong tương quan với văn chương Việt Nam và văn chương thế giới, dù thỉnh thoảng có chút cả nể và lan man.

Tác phẩm đã xuất bản:

Thơ đến từ đâu,

Thơ cần thiết cho ai,

Đối thoại văn chương,

Bốn mươi năm thơ Việt hải ngoại,

Thư gởi con trai,

Thơ buổi sáng,

Bầy chim di trú.

Cuộc đời yêu dấu (Alice Munro, dịch),

Comments


© 2024 by Nguyen Duc Tung

bottom of page