top of page

BỐN MƯƠI NĂM THƠ VIỆT HẢI NGOẠI: KHẾ IÊM

  • Writer: ductungducnguyen
    ductungducnguyen
  • Jun 25, 2024
  • 8 min read

ree

Khế Iêm sinh năm 1946 (khai sinh 1947) tại Lê Xá, Vụ Bản, Nam Định. Học Luật tại Sài Gòn. Sống tại Mỹ. Sáng lập và chủ biên Tạp chí Thơ tại California 1994-2004. Hiện nay anh chủ trương tờ báo giấy thơ tân hình thức Việt được nhiều người tìm đọc.


Tác phẩm: Hột huyết (kịch, Sàigòn 1972), Thanh xuân (Thơ, California 1992), Lời của quá khứ (Truyện, California 1996), Dấu quê (Thơ, California 1996), Tân hình thức, Tứ khúc và những tiểu luận khác (Tiểu luận, California 2003), đồng tác giả và chủ biên tập Thơ Kể, Poetry Narrates (Tan hinh thuc publishing, 2009).


*


Khế Iêm nổi tiếng như người khởi xướng và, đến nay vẫn tiếp tục, như cây viết lý luận chính yếu của phong trào thơ Tân hình thức Việt. Về sáng tác, anh cũng là một trong vài nhà thơ quan trọng nhất của phong trào này. Trước đó, thời kỳ cổ điển và thơ tự do, thơ Khế Iêm ít được biết tới hơn nhưng không phải là anh không có những bài thơ được yêu mến. Chúng phần nào là tiền đề để anh bước vào con đường thi pháp mới. Như một người sáng tác, anh có những thuận lợi của nhà thơ có kinh nghiệm lâu năm, viết nhiều thể thơ, đọc nhiều, nhưng vì thế anh cũng có những gánh nặng khác trên vai: toàn bộ lý luận về thơ Tân hình thức, sự triển khai và sự áp đặt của nó đối với một nhà lý thuyết.


Những người đọc kỹ thơ Khế Iêm trước đây sẽ ngạc nhiên thấy rằng trong thời kỳ đầu anh vốn không phải là người nặng về tự sự và mô tả, với khuynh hướng đi sâu vào chi tiết và khuynh hướng yêu thích tính chính xác vốn phổ biến trong các truyền thống phương Tây. Như vậy, có thể xem Tân hình thức là một bước ngoặt trước hết với thẩm mỹ của nhà thơ. Có lẽ nhiều người đã từng gặp những khúc quanh như thế, nhưng chỉ một số người trong số họ, những tài năng có lẽ, mới kịp đột ngột rẽ đường vào khúc quanh ấy. Thơ Khế Iêm đầy rẫy những chi tiết thời thơ ấu, thời mới lớn, ký ức chiến tranh, chiêm nghiệm lẽ đời và tuổi già. Những yếu tố chính trị trong thơ anh chỉ thấp thoáng hiện diện nhưng sẽ trở đi trở lại. Những đề tài được ưa thích của Khế Iêm như quan hệ giữa người và người, thân phận, quê hương, không phải là những đề tài khác thường. Vì vậy, khi trở thành chất liệu của thơ Tân hình thức, cố gắng cần thiết của nhà thơ trở nên rất lớn để có thể biến chúng thành các phương tiện hữu dụng.


Thơ Tân hình thức, như nhiều lần được anh và các nhà thơ đồng hành định nghĩa, bao gồm những đặc tính như: tính truyện, tính lập lại, ngôn ngữ đời thường, tính vắt dòng, vần điệu. Có lẽ cần thêm rằng tính chất vui chơi và tính chất huyền bí cũng tạo nên những phẩm chất cốt lõi khác. Là một phong trào nặng về hình thức nghệ thuật, cho đến nay thơ Tân hình thức nói chung, của nhiều tác giả, và thơ của riêng Khế Iêm, đang cho thấy những khả năng tiềm tàng và những giới hạn dễ thấy của nó. Đó là vì sao trong dư luận phê bình có hai khuynh hướng, khen và chê, đối với Tân hình thức.


Năm 2014, một hội thảo khoa học về thơ Tân hình thức được dự định, bởi tạp chí Sông Hương ở Huế và tổng biên tập Hồ Đăng Thanh Ngọc, cũng là một nhà thơ Tân hình thức, chứng tỏ sức lan tỏa của phong trào này ở hải ngoại và trong nước. Hội thảo không thực hiện được, nhưng đã trở thành, một cách đầy ấn tượng, việc ra mắt một tuyển tập song ngữ dày dặn, công phu, mỹ thuật, chứng tỏ sự hiện diện của cả hai khuynh hướng ủng hộ và nghi ngại này, và cả hai đều mạnh mẽ.


Xét thuần túy về mặt nghệ thuật, các phản hồi khen chê có thể được các nhà thơ đồng hành với Khế Iêm sử dụng để điều chỉnh. Gần đây một số nhà thơ đã có khuynh hướng mở rộng các ranh giới của nó, tiếp cận những đề tài xã hội và chính trị, mới, đi sâu vào các khuynh hướng tâm linh, làm phong phú thêm ưu điểm ngôn ngữ của Tân hình thức.


Nhà thơ Đỗ Quyên, một trong những người theo dõi khách quan và sát sao phong trào Tân hình thức, cũng như theo dõi nhiều vận động thơ ca khác, đã nhận xét như sau:


“Đây cũng là lần đầu tiên trong sự phát triển văn học Việt Nam, một trào lưu thi ca – có lý thuyết bài bản, có tranh luận sôi nổi, có thời gian thử thách, có ảnh hưởng dư luận và nhất là có thực hành sáng tác rộng khắp trong và ngoài lãnh thổ quốc gia – đã được cộng đồng văn học chấp nhận về học thuật. Trong môi trường lý luận, phê bình và sáng tác văn nghệ Việt Nam lâu nay chưa có tập quán trường/ phái/ nhóm, đây nên được xem là bước chuyển đổi lớn…


Một cách tương đối, nếu xem hành trình sáng tác theo 4 bậc thang – Cách mạng (Cải cách) thơ: cần văn hóa, thời đại mới, thông qua chủ nghĩa, triết thuyết mới; Cách tân (mở đường) thơ: cần thi pháp mới, tạo khuynh hướng mới; Đổi mới thơ: bằng bút pháp mới tạo lối viết mới; Sáng tạo thơ: qua phong cách mới với thủ pháp mới – thì Thơ Tân hình thức Việt ở bậc thang Cách tân.”


Phong trào Tân hình thức Hoa Kỳ có lẽ đã chọn được người đại diện xứng đáng của mình trong ngôn ngữ Việt, không những đại diện mà thậm chí còn nâng lên, ở một nhà thơ với sự xẻ đôi giữa một bên là khuynh hướng cách tân về phong cách và ngôn ngữ, một bên là khuynh hướng trữ tình và vần điệu cổ điển.


NĐT


TỰ CA


Mở mắt Nhấp nháy nghi, hồn nhiên

Rơi trên thềm, ruộng đồng chảy mật

Chưa bao giờ nước và đất thành bùn

Chưa bao giờ điêu linh là mộng


Ta khởi từ đời thật có

Chạy đi rồi về gió tất tưởi

Chiều xa chôn hờ thây ngoài non

Đợi nhau từng giờ bướm thổn thức


Dừng lại con quay quẻ may rủi

Dắt tay bước qua cầu nước mắt

Thở dài

Cười

Tiếng hùng hổ

Nhè nhẹ rừng lời buông bông lơn

Nhát cuốc

Cỏ, hẳn nhiên chết

Cho nhanh ngày mầm héo xơ xác

Vay trả ngàn kiếp muôn biến đổi

Ta ca thiêm thiếp quê mùa thơm.


XUÂN TÙ

Gửi TPK


Lửa mắt, hôn tóc sao

Chảy và khóc

Lời kinh mưa


Như trái tim kịch, lòng co quắp

Như bất ưng chiều run phiêu linh

Như chim bay qua rừng hát huyên náo


Ta, sâm thương nguồn gió đau đớn

Bên quán xưa men rượu còn chờ

Thây man di có tiếng hờn oán

Sông cuối sông về, hoa tinh mơ


Ngăn ngắt quanh ngực núi càn rỡ

Khuya liếp tranh hồn quê siêu sinh

Ta cắn răng cùng đá gầm rú

Trong nước trôi ngoài trăng lân tinh


Soi, bỗng nhiên dòng nỗi lam lũ

Đang cuốn đi từng cơn phiếm du

Thiêm thiếp hơi gặm miếng tình cũ

Bao phế hưng ta mùa xuân tù.


DẤU QUÊ


phà vào lũ mục

tử bằng đất nung

với tay nhón cái phôi


pha với khói

tí tách

con mắt góc xếch

mé trong thế giới hai mặt một lời

(ai ở ngoài lời)

vẽ lại hình dạng đã thành quen

thói


phẩy con đường làm đôi

không biết lối nào có dấu quê


CON MÈO ĐEN


Con mèo đen có linh hồn và chiếc

xương sườn của tôi, mỗi buổi sáng thức

dậy không bao giờ rửa mặt, mỗi buổi

sáng thức dậy không bao giờ đánh răng;


con mèo đen có đôi mắt bằng đất

sét, mở ra và nhắm lại, hay cứ

mở ra và không bao giờ nhắm lại,

trong lúc lên thang xuống thang, mang theo


linh hồn và chiếc xương sườn của tôi,

mà quên rằng, tôi đã sống những ngày

hôn ám biết bao, tự thuở nào và

tại sao thì tôi đành chôn kín, trong


cái túi đựng đầy những đoạn chú thích,

được lượm lặt từ rất nhiều mẩu chuyện,

để cấu thành câu chuyện về con mèo

đen, mang linh hồn và chiếc xương sườn


của tôi; dĩ nhiên, đó là con mèo

đen có đôi mắt bằng đất sét, chứ

không phải bất cứ đôi mắt nào khác;

mù đặc, trong lúc lên thang xuống thang.


NGƯỜI ĐÀN BÀ SAU 40 NĂM


Người đàn bà 40 tuổi trở

về sau 40 năm cuộc chiến

tàn nơi một đất nước xa lạ

xa lạ như đứa trẻ sinh ra


không biết mình là ai trong cuộc

đời 40 năm mập mờ ký

ức bà đi tìm bà hay bà

đi tìm ai ôi chao bà đi


tìm câu chuyện về người đàn bà

đã sinh ra bà và ném bà

vào một thế giới không phải của

bà nhưng bà chỉ gặp một Sơ


già từng cưu mang những đứa trẻ

mồ côi và cho họ một cuộc

đời khác khác với cuộc đời họ

đã sinh ra Sơ ngỡ ngàng Sơ


không nhận ra bà bà không nhận

ra Sơ đã 40 năm qua

rồi Sơ kể kể đi kể lại

những hoài niệm cất giấu sau cuộc


chiến tàn bà là đứa trẻ được

đưa tới trại trẻ mồ côi từ

bệnh viện bệnh viện nơi trú ẩn

của sự sống và cái chết cuộc


đời của người đàn bà đã sinh

ra bà và cứ thế huyễn hoặc

này vùi vào huyễn hoặc khác cuộc

đời này vùi vào cuộc đời khác


những dấu tích phôi pha đủ để

Sơ già già hơn qua năm tháng

nhưng vẫn chồng chất những mảnh đời

bất hạnh của những đứa trẻ mồ


côi rồi Sơ lại kể kể đi

kể lại như thể sợ mất đi

đứa con thất lạc nay đã về

nhà trong cuộc hành trình 40


năm sau cuộc chiến tàn bà trở

về nơi bà đã ra đi nay

bà lại ra đi đến nơi đã

trở về bà là ai là ai


là câu hỏi mãi đeo đẳng nơi

bà dù cho là có 40

năm sau nữa.


* Theo bản tin “Ngày về của đứa trẻ trong Chiến dịch Không vận Trẻ em 1975”, nguồn Khampha.vn, câu chuyện sơ tán của Julie Davis từ Sài Gòn tới Seattle, Mỹ, vào năm 1975.


TÂN HÌNH THỨC VÀ CÂU CHUYỆN KỂ


Khi tôi ngồi uống cà phê ngoài lề

đường và kể lại câu chuyện đã được

kể lại, từ nhiều đời mà đời nào

cũng giống đời nào, mà lời nào cũng


giống lời nào, về người đàn bà và

đàn con nheo nhóc (nơi góc phố được

gọi là chỗ chết, nơi góc phố được

gọi là chỗ sống), kẻ những đường kẻ


bằng than đen; gãy góc, xấu xí như

cái bóng trong tấm hình cũ, như dĩ

nhiên hôm nay ngày mai ngày mốt, như

thế thôi thì thế thôi, biết đâu chừng


nhưng người đàn bà và đàn con nheo

nhóc, vẫn kể lại câu chuyện đã được

kể lại, như người khác đã từng kể

lại, dù chẳng để lại gì ngoài câu


chuyện đã kể, bởi câu chuyện đang tự

kể lại, và không ai, ngay cả người

đàn bà và đàn con nheo nhóc, bước

ra ngoài câu chuyện đã được kể lại.

Comments


© 2024 by Nguyen Duc Tung

bottom of page