top of page

NHẬN ĐƯỢC VÀ GIỚI THIỆU: KHẾ IÊM, THANH XUÂN, TÂN HÌNH THỨC

  • Writer: ductungducnguyen
    ductungducnguyen
  • Jun 21, 2024
  • 12 min read

ree

Bất ngờ nhận được món quà quý của nhà thơ Khế Iêm, từ California, vui mừng giới thiệu với các bạn.


Trong hình là tập thơ Thanh Xuân và tờ báo giấy “câu lạc bộ thơ” Tân Hình Thức.


Trân trọng cám ơn nhà thơ Khế Iêm.



“Khế Iêm sinh năm 1946 (khai sinh 1947) tại Lê Xá, Vụ Bản, Nam Định. Học Luật tại Sài Gòn. Sống tại Mỹ. Sáng lập và chủ biên Tạp chí Thơ tại California 1994-2004. Hiện nay anh chủ trương tờ báo giấy thơ tân hình thức Việt được nhiều người tìm đọc.


Tác phẩm: Hột huyết (kịch, Sàigòn 1972), Thanh xuân (Thơ, California 1992), Lời của quá khứ (Truyện, California 1996), Dấu quê (Thơ, California 1996), Tân hình thức, Tứ khúc và những tiểu luận khác (Tiểu luận, California 2003), đồng tác giả và chủ biên tập Thơ Kể, Poetry Narrates (Tan hinh thuc publishing, 2009).


Khế Iêm nổi tiếng như người khởi xướng và, đến nay vẫn tiếp tục, như cây viết lý luận chính yếu của phong trào thơ Tân hình thức Việt. Về sáng tác, anh cũng là một trong vài nhà thơ quan trọng nhất của phong trào này. Trước đó, thời kỳ cổ điển và thơ tự do, thơ Khế Iêm ít được biết tới hơn nhưng không phải là anh không có những bài thơ được yêu mến. Chúng phần nào là tiền đề để anh bước vào con đường thi pháp mới. Như một người sáng tác, anh có những thuận lợi của nhà thơ có kinh nghiệm lâu năm, viết nhiều thể thơ, đọc nhiều, nhưng vì thế anh cũng có những gánh nặng khác trên vai: toàn bộ lý luận về thơ Tân hình thức, sự triển khai và sự áp đặt của nó đối với một nhà lý thuyết.


Những người đọc kỹ thơ Khế Iêm trước đây sẽ ngạc nhiên thấy rằng trong thời kỳ đầu anh vốn không phải là người nặng về tự sự và mô tả, với khuynh hướng đi sâu vào chi tiết và khuynh hướng yêu thích tính chính xác vốn phổ biến trong các truyền thống phương Tây. Như vậy, có thể xem Tân hình thức là một bước ngoặt trước hết với thẩm mỹ của nhà thơ. Có lẽ nhiều người đã từng gặp những khúc quanh như thế, nhưng chỉ một số người trong số họ, những tài năng có lẽ, mới kịp đột ngột rẽ đường vào khúc quanh ấy. Thơ Khế Iêm đầy rẫy những chi tiết thời thơ ấu, thời mới lớn, ký ức chiến tranh, chiêm nghiệm lẽ đời và tuổi già. Những yếu tố chính trị trong thơ anh chỉ thấp thoáng hiện diện nhưng sẽ trở đi trở lại. Những đề tài được ưa thích của Khế Iêm như quan hệ giữa người và người, thân phận, quê hương, không phải là những đề tài khác thường. Vì vậy, khi trở thành chất liệu của thơ Tân hình thức, cố gắng cần thiết của nhà thơ trở nên rất lớn để có thể biến chúng thành các phương tiện hữu dụng.


Thơ Tân hình thức, như nhiều lần được anh và các nhà thơ đồng hành định nghĩa, bao gồm những đặc tính như: tính truyện, tính lập lại, ngôn ngữ đời thường, tính vắt dòng, vần điệu. Có lẽ cần thêm rằng tính chất vui chơi và tính chất huyền bí cũng tạo nên những phẩm chất cốt lõi khác. Là một phong trào nặng về hình thức nghệ thuật, cho đến nay thơ Tân hình thức nói chung, của nhiều tác giả, và thơ của riêng Khế Iêm, đang cho thấy những khả năng tiềm tàng và những giới hạn dễ thấy của nó. Đó là vì sao trong dư luận phê bình có hai khuynh hướng, khen và chê, đối với Tân hình thức.


Năm 2014, một hội thảo khoa học về thơ Tân hình thức được dự định, bởi tạp chí Sông Hương ở Huế và tổng biên tập Hồ Đăng Thanh Ngọc, cũng là một nhà thơ Tân hình thức, chứng tỏ sức lan tỏa của phong trào này ở hải ngoại và trong nước. Hội thảo không thực hiện được, nhưng đã trở thành, một cách đầy ấn tượng, việc ra mắt một tuyển tập song ngữ dày dặn, công phu, mỹ thuật (*), chứng tỏ sự hiện diện của cả hai khuynh hướng ủng hộ và nghi ngại này, và cả hai đều mạnh mẽ.


Xét thuần túy về mặt nghệ thuật, các phản hồi khen chê có thể được các nhà thơ đồng hành với Khế Iêm sử dụng để điều chỉnh. Gần đây một số nhà thơ đã có khuynh hướng mở rộng các ranh giới của nó, tiếp cận những đề tài xã hội và chính trị, mới, đi sâu vào các khuynh hướng tâm linh, làm phong phú thêm ưu điểm ngôn ngữ của Tân hình thức.


Nhà thơ Đỗ Quyên, một trong những người theo dõi khách quan và sát sao phong trào Tân hình thức, cũng như theo dõi nhiều vận động thơ ca khác, đã nhận xét như sau:


“Đây cũng là lần đầu tiên trong sự phát triển văn học Việt Nam, một trào lưu thi ca – có lý thuyết bài bản, có tranh luận sôi nổi, có thời gian thử thách, có ảnh hưởng dư luận và nhất là có thực hành sáng tác rộng khắp trong và ngoài lãnh thổ quốc gia – đã được cộng đồng văn học chấp nhận về học thuật. Trong môi trường lý luận, phê bình và sáng tác văn nghệ Việt Nam lâu nay chưa có tập quán trường/ phái/ nhóm, đây nên được xem là bước chuyển đổi lớn…


Một cách tương đối, nếu xem hành trình sáng tác theo 4 bậc thang – Cách mạng (Cải cách) thơ: cần văn hóa, thời đại mới, thông qua chủ nghĩa, triết thuyết mới; Cách tân (mở đường) thơ: cần thi pháp mới, tạo khuynh hướng mới; Đổi mới thơ: bằng bút pháp mới tạo lối viết mới; Sáng tạo thơ: qua phong cách mới với thủ pháp mới – thì Thơ Tân hình thức Việt ở bậc thang Cách tân.”


Phong trào Tân hình thức Hoa Kỳ có lẽ đã chọn được người đại diện xứng đáng của mình trong ngôn ngữ Việt, không những đại diện mà thậm chí còn nâng lên, ở một nhà thơ với sự xẻ đôi giữa một bên là khuynh hướng cách tân về phong cách và ngôn ngữ, một bên là khuynh hướng trữ tình và vần điệu cổ điển.”


NĐT


(Xin trích lại vài dòng trong tuyển tập 40 năm thơ Việt hải ngoại, đã đăng trên Văn Việt.)




TỰ CA


Mở mắt


Nhấp nháy nghi, hồn nhiên


Rơi trên thềm, ruộng đồng chảy mật


Chưa bao giờ nước và đất thành bùn


Chưa bao giờ điêu linh là mộng


Ta khởi từ đời thật có


Chạy đi rồi về gió tất tưởi


Chiều xa chôn hờ thây ngoài non


Đợi nhau từng giờ bướm thổn thức


Dừng lại con quay quẻ may rủi


Dắt tay bước qua cầu nước mắt


Thở dài


Cười


Tiếng hùng hổ


Nhè nhẹ rừng lời buông bông lơn


Nhát cuốc


Cỏ, hẳn nhiên chết


Cho nhanh ngày mầm héo xơ xác


Vay trả ngàn kiếp muôn biến đổi


Ta ca thiêm thiếp quê mùa thơm.



XUÂN TÙ


Gửi TPK


Lửa mắt, hôn tóc sao


Chảy và khóc


Lời kinh mưa


Như trái tim kịch, lòng co quắp


Như bất ưng chiều run phiêu linh


Như chim bay qua rừng hát huyên náo


Ta, sâm thương nguồn gió đau đớn


Bên quán xưa men rượu còn chờ


Thây man di có tiếng hờn oán


Sông cuối sông về, hoa tinh mơ


Ngăn ngắt quanh ngực núi càn rỡ


Khuya liếp tranh hồn quê siêu sinh


Ta cắn răng cùng đá gầm rú


Trong nước trôi ngoài trăng lân tinh


Soi, bỗng nhiên dòng nỗi lam lũ


Đang cuốn đi từng cơn phiếm du


Thiêm thiếp hơi gặm miếng tình cũ


Bao phế hưng ta mùa xuân tù.




DẤU QUÊ


phà vào lũ mục


tử bằng đất nung


với tay nhón cái phôi


pha với khói


tí tách


con mắt góc xếch


mé trong thế giới hai mặt một lời


(ai ở ngoài lời)


vẽ lại hình dạng đã thành quen


thói


phẩy con đường làm đôi


không biết lối nào có dấu quê



CON MÈO ĐEN



Con mèo đen có linh hồn và chiếc


xương sườn của tôi, mỗi buổi sáng thức


dậy không bao giờ rửa mặt, mỗi buổi


sáng thức dậy không bao giờ đánh răng;


con mèo đen có đôi mắt bằng đất


sét, mở ra và nhắm lại, hay cứ


mở ra và không bao giờ nhắm lại,


trong lúc lên thang xuống thang, mang theo


linh hồn và chiếc xương sườn của tôi,


mà quên rằng, tôi đã sống những ngày


hôn ám biết bao, tự thuở nào và


tại sao thì tôi đành chôn kín, trong


cái túi đựng đầy những đoạn chú thích,


được lượm lặt từ rất nhiều mẫu chuyện,


để cấu thành câu chuyện về con mèo


đen, mang linh hồn và chiếc xương sườn


của tôi; dĩ nhiên, đó là con mèo


đen có đôi mắt bằng đất sét, chứ


không phải bất cứ đôi mắt nào khác;


mù đặc, trong lúc lên thang xuống thang.




NGƯỜI ĐÀN BÀ SAU 40 NĂM



Người đàn bà 40 tuổi trở


về sau 40 năm cuộc chiến


tàn nơi một đất nước xa lạ


xa lạ như đứa trẻ sinh ra



không biết mình là ai trong cuộc


đời 40 năm mập mờ ký


ức bà đi tìm bà hay bà


đi tìm ai ôi chao bà đi



tìm câu chuyện về người đàn bà


đã sinh ra bà và ném bà


vào một thế giới không phải của


bà nhưng bà chỉ gặp một Sơ



già từng cưu mang những đứa trẻ


mồ côi và cho họ một cuộc


đời khác khác với cuộc đời họ


đã sinh ra Sơ ngỡ ngàng Sơ



không nhận ra bà bà không nhận


ra Sơ đã 40 năm qua


rồi Sơ kể kể đi kể lại


những hoài niệm cất giấu sau cuộc



chiến tàn bà là đứa trẻ được


đưa tới trại trẻ mồ côi từ


bệnh viện bệnh viện nơi trú ẩn


của sự sống và cái chết cuộc



đời của người đàn bà đã sinh


ra bà và cứ thế huyễn hoặc


này vùi vào huyễn hoặc khác cuộc


đời này vùi vào cuộc đời khác



những dấu tích phôi pha đủ để


Sơ già già hơn qua năm tháng


nhưng vẫn chồng chất những mảnh đời


bất hạnh của những đứa trẻ mồ



côi rồi Sơ lại kể kể đi


kể lại như thể sợ mất đi


đứa con thất lạc nay đã về


nhà trong cuộc hành trình 40



năm sau cuộc chiến tàn bà trở


về nơi bà đã ra đi nay


bà lại ra đi đến nơi đã


trở về bà là ai là ai



là câu hỏi mãi đeo đẳng nơi


bà dù cho là có 40


năm sau nữa.




*Theo bản tin “Ngày về của đứa trẻ trong Chiến dịch Không vận Trẻ em 1975”, nguồn Khampha.vn, câu chuyện sơ tán của Julie Davis từ Sài Gòn tới Seattle, Mỹ, vào năm 1975.




NẮNG VÀNG



Tôi đứng ở bãi đậu


xe nhìn bâng khuâng một


vùng nắng vàng (và trong


lúc này) tôi không biết



tôi là nắng hay nắng


là tôi con đường phía


trước một hướng ra biển


còn hướng kia lên đồi



cả hai nơi đều có


những ngôi nhà đắt tiền


nhưng những ngôi nhà đắt


tiền thì có liên hệ



gì tới tôi có lẽ


là do sự liên tưởng


từ con đường con đường


dẫn tới những ngôi nhà



đắt tiền bây giờ nắng


đã xóa đi ký ức


và cái nghĩ của tôi


cũng đã rời xa tôi



lờ mờ tôi không còn


biết tôi đang ở đâu


và đi đâu bởi tôi


là nắng chỉ khi nào



nắng rời xa tôi lúc


đó ký ức và cái


nghĩ trở lại thì may


ra tôi mới trở lại



tôi nhận ra nơi tôi


đến và đi (chẳng mấy


chốc) bóng tối tiễn đưa


ánh sáng và bãi đậu



xe sẽ lấp lánh lấp


lánh đủ sắc màu nên


tôi không muốn lãng phí


giây phút nào ở với



nắng lúc này tôi không


làm gì ngoài ngó quanh


lác đác bóng người len


lỏi qua những hàng xe.




TÂN HÌNH THỨC VÀ CÂU CHUYỆN KỂ


Khi tôi ngồi uống cà phê ngoài lề


đường và kể lại câu chuyện đã được


kể lại, từ nhiều đời mà đời nào


cũng giống đời nào, mà lời nào cũng


giống lời nào, về người đàn bà và


đàn con nheo nhóc (nơi góc phố được


gọi là chỗ chết, nơi góc phố được


gọi là chỗ sống), kẻ những đường kẻ


bằng than đen; gãy góc, xấu xí như


cái bóng trong tấm hình cũ, như dĩ


nhiên hôm nay ngày mai ngày mốt, như


thế thôi thì thế thôi, biết đâu chừng


nhưng người đàn bà và đàn con nheo


nhóc, vẫn kể lại câu chuyện đã được


kể lại, như người khác đã từng kể


lại, dù chẳng để lại gì ngoài câu


chuyện đã kể, bởi câu chuyện đang tự


kể lại, và không ai, ngay cả người


đàn bà và đàn con nheo nhóc, bước


ra ngoài câu chuyện đã được kể lại.


NGƯỜI ĐÀN BÀ


Người đàn bà ngủ với người đàn ông


không phải chồng của mình, trong căn phòng


không phải căn phòng của mình, với cái


tôi không phải cái tôi của mình, vào


buổi tối không giống buổi tối nào (vào


buổi tối không khác buổi tối nào), giữa


nhà ga đầy muỗi mòng và nước đái


ngựa, nhai lại bất cứ thứ gì có


thể nhai lại, bôi xóa bất cứ thứ


gì có thể bôi xóa, ném vào đống


đồ đạc cũ, mảnh báo cũ, kể về


nỗi nhọc nhằn đồi trụy; xỏ chân vào


đôi guốc mộc, và bước qua ngưỡng cửa,


để đi tìm người chồng nơi những người


đàn ông không phải chồng của mình. Biết


thế thì. Thôi thế thì. Người đàn bà


đánh mất quá khứ, hay quá khứ đã


tàn phai, thất thiệt, từ hàng trăm năm


trước, rằng đã có một thời, đã có,


“một thời áo trắng xa xôi”. Người đàn


bà quay gót, trở về căn phòng không


phải căn phòng của mình, với cái tôi


không phải cái tôi của mình, dửng dưng,


như sự thật chẳng bao giờ có thật.


———————


* “Một thời áo trắng…”: Lời nhạc của Trầm Tử Thiêng




TẾT Ở NEW YORK



Năm cũ không bước qua


năm mới vì năm mới


vốn thông thương với năm


cũ trong lúc lũ tết


và lũ tuyết ập xuống


mái nhà ôm lấy nhau


không chịu tan ra chẳng


khác nào năm cũ nằm


ôm lấy năm mới nhì


nhằng không thể bước qua


nhau mãi cho đến lúc


giật mình thức giấc bởi


tiếng động của cái lạnh


làm se da thay cho


tiếng pháo nhắc tới tết.



20/2/2015




MẸ KHỔ



Mẹ già đã gìa ngồi


còng lưng bên gánh hàng


rong nơi góc phố bụi


mờ những bước chân qua


mẹ chờ gì và mẹ


chờ ai không mẹ không


chờ gì và mẹ không


chờ ai ngòai nỗi buồn


canh cánh từ thuở khai


sinh mẹ còn gì và


mẹ còn ai không mẹ


không còn gì mẹ không


còn ai ngòai lũ con


đứa lang bạt kỳ hồ


đầu đường xó chợ đứa


vợ bỏ đi hoang lặn


lội tìm trầm nơi rừng


sâu núi thẳm một sớm


tin về xảy chân đã


thành thiên cổ không ai


nuôi mẹ vậy mẹ nuôi


ai mẹ nuôi lũ cháu


còn thơ mồ côi mồ


cút bữa đói bữa no


trong vòng tay mẹ bà


ơi bà ơi mẹ như


chiếc lá đổi màu năm


cùng tháng tận ngồi đây


kẻ qua người lại không


ai thấy mẹ mẹ không


thấy ai rồi một hôm


mẹ nghe lũ chim non


quang quác đầu nhà kêu


trong hoang sơ mẹ


không kịp về cơn đau


ập đến mang xác mẹ


đi đi đâu về đâu


bà ơi bà ơi ngày


đi vào đêm mẹ không


kịp về mẹ ngồi bên


đường mẹ ngồi chết khô


bên gánh hàng rong người


đi kẻ ở phố vẫn


như xưa chỉ không còn


cuộc đời mẹ khổ bà


ơi bà ơi bà ơi


bà ơi đi đâu về đi.




KẺ VIẾT



Những kẻ viết – như tôi –


sống với những nhân vật


của họ mà nhân vật


của họ thì vốn dĩ



là những mẫu người thật


đủ mọi dạng hình được


bỏ vào những tình huống


do họ tạo ra theo



kiểu cách của họ những


nhân vật của họ trở


thành những con rối dần


dần những con rối lại



biến chính kẻ viết thành


những con rối con rối


trong những con rối ô


hay thế giới của những



con rối cứ thế và


cứ thế phiêu bạt phiêu


bạt những con rối chữ


nghĩa lộn xộn với những



con rối cuộc đời và


trong cái mớ bong bong


của hoài nghi kẻ viết


đi đâu về đâu cuối



cùng rồi cũng chỉ là


kẻ viết có khác gì


những con người khác luẩn


quẩn trong những thế giới



khác nhiễu nhương và nhiễu


nhương nhưng nhiễu nhương thì


nhiễu nhương những kẻ viết –


như tôi – làm sao có



thể thoát ra khỏi cái


viết và chỉ có thể


mãi mãi là kẻ viết


vất vưởng trong cái viết.




NHỮNG CÁI TÔI BUỒN



Nếu sự thực chỉ là ảo tưởng


và thực tại trùng trùng lớp sóng


phế hưng trong tình huống như vậy


tôi bị đẩy ra ngoài lề tôi



là con chữ những bản văn không


thể khác và không thể khác và


thế là tôi có thể cắt dán


tôi tải lên lấy xuống nén lại



gửi đi tách lìa giữa tôi và


tôi những cái tôi được tạo ra


từ tâm trí tôi những cái tôi


ký hiệu những cái tôi viết lời



tuyên ngôn những cái tôi viết lời


cổ động những cổ động rỗng không


những cái tôi dị dạng méo mó


những cái tôi nổi trôi trên mạng



lưới trời những cái tôi phẳng những


cái tôi bị tâm trí dày xéo


những cái tôi bị tâm trí xâm


lăng dựng thành kịch bản kịch bản



ở ngoài mọi kịch bản tôi là


tù nhân của tâm trí tôi và


những người khác là tù nhân của


tâm trí khác y như tôi vậy



đẩy con người tới bờ vực lãng


quên và bây giờ tôi đang ngồi


bên song cửa ngó ra ngoài thấy


le lói ánh trăng soi và ngẫm



lại nếu con người chỉ là hư


cấu những bản văn thì tôi cũng


chỉ là bản sao của vô số


những bản sao tôi những chiếc bóng



nói nói và nói chi nhiều (vì


sự thật chẳng bao nhiêu.)




(*) Kỷ Yếu Hội Thảo Tuyển Tập Tiểu Tuận “Thơ Tân Hình Thức Việt: Tiếp Nhận Và Sáng Tạo”/ Sông Hương Magazine Workshop Summary “Vietnamese New Formalism Poetry: Reception And Creativity”, Tạp Chí Sông Hương, Huế, 2014


Comments


© 2024 by Nguyen Duc Tung

bottom of page