ĐỌC VĂN HỌC VIỆT NAM HẢI NGOẠI (SƠ THẢO)
- ductungducnguyen
- 5 days ago
- 15 min read

Hoàng Ngọc Hiến
(nguồn: Da Màu)
Tôi đọc văn học Việt Nam hải ngoại, không có thời gian để nghiên cứu. Có lần gặp nhà văn Tô Hoài, ông đưa tôi xem một cuốn sách và nói: “Tôi mới mượn được bộ tiểu thuyết này, lời giới thiệu rất hay.” Lần sau gặp lại ông nói với tôi: “Hóa ra người viết bài giới thiệu chưa đọc tác phẩm.” Như vậy nghiên cứu mất thì giờ hơn nhưng có khi dễ hơn đọc, có thể chưa đọc mà vẫn có thể viết được một bài “nghiên cứu” rất hay.
Tôi làm công việc đọc những tác phẩm văn học hải ngoại, những bạn đồng nghiệp am hiểu mảng văn học này làm cho tôi bản danh sách tối thiểu, tôi đến thư viện Yên Kinh (Đại học Harvard) tìm sách đọc, đi California kiếm những cuốn thư viện không có, tuy vậy, vẫn còn thiếu… Từ những ấn tượng đọc tác phẩm nảy sinh nhiều vấn đề, tôi chọn những vấn đề đáng quan tâm nhất. Sau đây là những suy nghĩ của tôi về những vấn đề này.
I. Văn học Việt Nam hải ngoại trước hết là văn học
Đánh giá một tác phẩm văn học hải ngoại, câu hỏi đầu tiên là giá trị văn học của nó (nó có đáng là một tác phẩm văn học không?), không mấy ai đặt câu hỏi về tính chất hải ngoại của nó, hoặc đó chỉ là câu hỏi phụ. “Văn học Việt Nam hải ngoại trước hết là văn học” có nghĩa là như vậy.
Đã có sự thảo luận về cách đặt tên: văn học di tản, văn học lưu vong, văn học ngoài nước… Nếu như văn học di tản trước hết là văn học, văn học lưu vong trước hết là văn học, văn học hải ngoại trước hết là văn học… thì sự khác biệt giữa những tên gọi không đến nỗi quan trọng như ta nghĩ. Trong văn học Việt Nam hải ngoại có mảng vẫn được gọi là “chống cộng” đối lập với mảng văn học vẫn được gọi là “thân cộng”. Tưởng chừng như có một vực thẳm giữa hai mảng văn học này. Nhưng nếu như sự đối sánh được đặt ra trên quan niệm: văn học “chống cộng” cũng như văn học “thân cộng” trước hết là văn học, thì sự đối lập vẫn còn nhưng nó bị lu mờ bên cạnh sự thống nhất của phẩm giá “đáng gọi là văn học”. Giữa một tác phẩm “thân cộng” hay và một tác phẩm “chống cộng” dở, độc giả “chống cộng” hẳn sẽ chọn tác phẩm “thân cộng” hay (để đọc cho mình). Ngược lại, trong thâm tâm độc giả “thân cộng” vẫn thích đọc một tác phẩm “chống cộng” hay hơn là một tác phẩm “thân cộng” dở. Đấy là nói một cách rạch ròi. Vấn đề ở đây thực ra phức tạp hơn rất nhiều. Đọc cũng như sáng tác văn học thuộc lĩnh vực mỹ học là đất của tâm xả (tôi mượn chữ nhà Phật), đó là tâm thế buông bỏ những thành kiến và cố chấp, những phân biệt cứng nhắc và giả tạo thiện/ác, xấu/đẹp, cấp tiến/bảo thủ…
Thế nào là có phẩm giá “đáng là văn học”?
Có thể nêu lên nhiều phẩm giá. Tôi chú ý đến tính nhân loại phổ biến của văn học (còn gọi là tính nhân bản đại đồng).
“Bây giờ còn quá sớm – Nguyễn Mộng Giác viết – để phân biệt đâu là những bài viết có tính cách tuyên truyền giai đoạn và đâu là những tác phẩm văn chương có giá trị lâu dài, nhưng theo kinh nghiệm xưa nay, những tác phẩm đấu tranh chính trị chỉ sống được lâu khi nào nó vượt qua những giới hạn giai đoạn, đề cập được những vấn đề chung muôn thuở của nhân sinh.”[1] “Đề cập những vấn đề chung muôn thuở của nhân sinh,” đó là tính nhân loại phổ biến của văn học.
Nhận xét tác phẩm “Chuyện Một Người Di Cư [Nhức Đầu] Vừa Phải” của Nguyễn Bá Trạc, Nguyễn Mộng Giác viết:… “Chuyện của một người di cư [nhức đầu]….? Không. Đây là cuộc đời muôn thuở…”[2] Và đây là một lời đánh giá rất cao. Vì đụng đến cuộc đời muôn thuở, đó là tính phổ biến nhân loại của văn học. Giá trị văn học của tác phẩm này không chỉ ở những chuyện ngộ nghĩnh, lý thú về “người di cư nhức đầu vừa phải” mà chính là từ những “ngọt, bùi, đắng, cay” của nhân vật này, người đọc hiểu ra được những buồn, vui, khóc, cười thường tình của người đời và đời người.
Ngữ, một nhân vật yêu văn chương trong “Mùa Biển Động” của Nguyễn Mộng Giác, cảm thấy Natasa, Pier, Andrei… những nhân vật trong “Chiến Tranh và Hòa Bình” của Lev Tolxtoi gần gũi với mình hơn là những nhân vật trong tiểu thuyết Lê Văn Trương.[3] Natasa, Pier, Andrei… sống trong một thời đại cách xa thời của Ngữ gần hai thế kỷ, thuộc một đẳng cấp xã hội rất khác, ngôn ngữ, văn hoá, lối sống hoàn toàn khác…. Vậy thì cái gì khiến Ngữ cảm thấy họ gần gũi với mình? Đó là tính nhân loại phổ biến của văn học. Về bản sắc dân tộc, hẳn là những nhân vật trong tiểu thuyết Lê Văn Trương gần với Ngữ hơn. Tuy vậy, như chúng ta đã biết… Tôi không có ý làm giảm nhẹ ý nghĩa của bản sắc dân tộc trong văn học trong quan hệ mật thiết với tính nhân loại phổ biến – đó là điều tôi muốn nhấn mạnh. Tước bỏ tính nhân loại phổ biến là cách làm tốt nhất để xuyên tạc, biếm họa bản sắc dân tộc.
Cũng nhân vật Ngữ trong “Mùa Biển Động”, thời gian bị “đi đày” ở Bảo Chính, không cảm thấy cô đơn, nhờ hai tập thơ chữ Hán của Nguyễn Du và Cao Bá Quát anh mang theo.[4] Cái gì khiến Ngữ cảm thấy hai thi nhân thời xưa gần gũi với anh hơn người thời nay? Đó là tính nhân loại phổ biến của văn học.
Không sao kể hết những biểu hiện của mô-típ phổ quát và thường trực này trong văn học. Cảm giác cái “vô nghĩa trong một sát na ngắn ngủi” (Hoàng Khởi Phong) là mô-típ ấy. “Em không thấy rằng ta là tro bụi/Và sinh ra từ một ánh trăng suông” (Khế Iêm) cũng là mô-típ ấy.
“… tất cả tuồn tuột trôi đi, trôi đi… Nhiều lúc tôi có cảm tưởng mình như một giọt nước nhỏ sắp tan nhòa trong đại dương bao la cuộc sống” (Khánh Trường) vẫn là mô-típ ấy.
Gọi thế nào đây những tác giả viết văn ở ngoài nước: nhà văn di tản, nhà văn lưu vong, nhà văn hải ngoại… Không ít tác giả trong những người cầm bút ở hải ngoại tôi thấy gọi đơn giản bằng từ nhà văn như thế là đúng và đầy đủ, chẳng cần kèm theo bất cứ định ngữ nào. Nhà văn Nguyễn Bá Trạc sớm hiểu ra điều này. Trong thư của ông, gửi Phan Nhật Nam sắp rời Việt Nam sang Mỹ, có đoạn viết: “Nước Mỹ không phải là điểm đến. Nó là điểm khởi hành. Từ điểm này, người ta có thể bắt đầu những hành trình mới để nhìn thế giới một cách toàn bộ hơn. Nếu ông còn muốn tiếp tục viết thì cũng tốt lắm. Sau khi ổn định nên viết. Từ điểm khởi hành mới mẻ này, ông sẽ viết như một nhà văn, chứ không phải là nhà văn quân đội.”[5]
Nho giáo có câu: “Tính tương cận, tập tương viễn” (bản tính làm cho con người gần nhau, những tập quán làm cho con người xa nhau). Bản tính con người (hoặc tính nhân bản) làm cho con người ta gần nhau, đó là tính nhân loại phổ biến của văn học. Trong tập quán xã hội làm cho con người xa nhau, một số nhà văn hải ngoại mà tiêu biểu là Hoàng Khởi Phong đặc biệt chú ý đến những hệ tư tưởng “thống trị của thời đại” gieo rắc đủ thứ ngụy tín và ngụy lý, tạo ra ở chính ngay những đệ tử của nó trạng thái vô minh, nguồn gốc của không biết, của bao nhiêu hành động tai quái, mù quáng (xem “Viết Lên Trời Xanh” của Hoàng Khởi Phong). Có nhiều quan niệm về bản tính của con người. Tôi quan tâm đến quan niệm của nhà Phật xem bản tính con người là cái tâm của nó với những hạt giống tốt lành: từ, bi, hỉ, xả… Nếu như trong tâm địa của nó có những hạt giống xấu (sinh ra tham sân si) mặc sức nảy nở thì tự nhiên những hạt giống tốt bị che khuất (vô minh), vùi lấp. Và tâm địa của nó trở thành đất hoành hành của những súc sinh và quỉ đói, chả mấy chốc chính nó thực sự hóa thành địa ngục, địa ngục trong đầu con người. Trong văn học Việt Nam hải ngoại có nhiều tác phẩm có giá trị nhân chứng, giá trị tố cáo cao, viết về những địa ngục ở bên ngoài: những trại cải tạo, những phòng biệt giam, cuộc sống sau ngày 30 tháng Tư của những người vô tội bị o ép, bị nhục mạ trong tình trạng bần cùng, khánh kiệt, những quãng đời trôi giạt, long đong, vô vọng nơi đất khách quê người…. Phải chăng ở đây có ảnh hưởng của truyền thống hướng ngoại của tâm tưởng phương Tây? Khi chỉ ra: “Địa ngục, đó là Tha nhân”, Jean-Paul Sartre chứng tỏ rằng ông triết luận trong truyền thống hướng ngoại của tâm tưởng phương Tây. Ông phát hiện ra địa ngục ở tha nhân, tức là một địa ngục ở bên ngoài…
Trong truyện “Em Điên Xõa Tóc” của Kiệt Tấn, một nhân vật trí thức vượt biên rồi định cư ở Pháp tâm sự:
“…. Qua thư nhà, tôi thấy mình còn tốt phước hơn nhiều người. Như anh tôi, như bạn bè tôi đang học tập cải tạo, có thằng đã chết. Ở đó tù tội, hành xác, hành tinh thần, địa ngục triền miên. Vậy mà tôi không thấy sướng khi ở đây. Địa ngục Việt Nam tôi trốn được. Nhưng còn cái địa ngục tôi mang kè kè trong đầu, tôi biết trốn ở đâu. Mỗi chúng ta mang sẵn thiên đàng địa ngục trong tâm tưởng.”[6]
Là một nhà văn am hiểu văn hóa và lối sống phương Tây, Kiệt Tấn lại hơn ai hết mang tâm thế hướng nội của triết luận phương Đông. Sartre thấy địa ngục ở tha nhân, theo cách nhìn của Kiệt Tấn, địa ngục ở ngay trong tâm tưởng mình. Hai nền văn hóa khác nhau. Nếu như Jean-Paul Sartre trước hết thấy địa ngục trong đầu của ông, hẳn là cách nhìn của ông về tha nhân sẽ khác đi, đây là cách nhìn của tôi về tương quan giữa hai nền văn hóa. Trong truyện “Chỗ Trở Về”[7] của Khánh Trường, nhân vật Kh. vượt biên, đến ngày thứ ba rơi vào tay hải tặc: “… tàn nhẫn, man rợ, thú vật…”, “… tan hoang hồn phách, nhày nhụa xác thân…” (xem trang 62), bị “cột vào một can dầu thẩy xuống sông”, “được vớt lên”, “vực sống dậy”, và “mang đến thiên đường mơ ước”…, ở đây dường như có tất cả những gì mà trước đây Kh. từng mơ ước ở quê nhà: “cũng nhà, cũng xe, cũng quần là, áo lượt. Kẻ đón, người đưa…”, “Nhưng mà, nhưng mà…., có điều gì sai trật, rất mơ hồ, rất trừu tượng… Kh. cứ mãi nháo nhác không yên.” Vì lý do gì vậy? Không phải vì “chia cách mẹ cha, anh em, họ hàng, bè bạn”, không phải vì “dấu ấn đau thương kinh hoàng của mười ngày địa ngục”, cũng không phải vì “ngày lại ngày công việc nhàm chán ở xưởng thợ” (xem trang 63)… Đây chỉ là những điều bên ngoài nhân vật Kh. Cuối cùng sau một cơn “sốc” tâm lý, Kh. nhận ra được nguyên nhân đích thực ở bên trong con người mình: đó là “những vọng động tối tăm ẩn tàng trong thẳm sâu con người” mình, đó là những thói xấu: “thả mồi bắt bóng, tham lam, ích kỷ, đua đòi, cuối cùng chỉ bêu rếu chính mình”, biến mình thành “đồ chơi cho lũ đàn ông cũng ích kỷ, tham lam, thả mồi bắt bóng” (xem trang 64), đây chính là “địa ngục” Kh. mang trong đầu mình (địa ngục không nhất thiết phải có vạc dầu, hỏa lò). Đồng thời Kh. nhận ra chân tướng mình: “một chân tướng trơn nhớt lầy nhầy như loài lươn trạch”. Trong cách nhìn của Kiệt Tấn, của Khánh Trường, có ảnh hưởng sâu sắc của triết luận Phật giáo. Sau đây là một đoạn văn thiền giải Kinh A Di Đà: “Chúng ta ai cũng biết địa ngục nóng như thế nào rồi. Chúng ta đã từng ở địa ngục, đã từng bị lửa giận, lửa phiền não, lửa tuyệt vọng đốt cháy. Chúng ta cũng biết rằng tất cả những đau khổ của địa ngục đều từ trong tâm mình ra chứ không phải từ ngoài đi vào.”[8] Văn học hải ngoại dầu sao ít ra cũng có đôi ba nhà văn thấy được “địa ngục ở trong đầu mình”, văn học trong nước còn ít hơn nữa, thiếu hẳn đi chiều sâu của triết lý Đông phương. Dĩ nhiên trước sau rất cần những tiếng thét phẫn nộ, những lời tố cáo đanh thép đánh động công luận về sự ngang nhiên tồn tại những địa ngục bên ngoài, to và nhỏ. Tuy nhiên, chừng nào mỗi người trong chúng ta, từ những người thường dân cho đến người cầm quyền và lãnh đạo chưa biết ngó đến “cái địa ngục trong đầu mình” thì cuộc sống vẫn không khá lên được. Một trong ba tiêu chuẩn Lev Tolxtoi đề ra cho một tác phẩm văn học lớn là: phản ánh được một vài “đặc tính cốt yếu của nhân loại mà nhân loại chưa ý thức được”. “Mang địa ngục kè kè trong đầu mình” là một đặc tính cốt yếu của nhân loại mà nhân loại chưa ý thức được.
Có thể xem xét tính nhân loại phổ biến từ góc độ cái “nhân loại trung bình”, cái nhân loại “thường thường bậc trung”, cái nhân loại của những con người bình thường, tầm thường được nhà văn Nguyễn Mộng Giác định nghĩa như sau: “con người bình thường là con người thụ động, ích kỷ, nhút nhát, rụt rè trước quyền lực, làm được cái gì cao cả cũng phải bị hoàn cảnh thúc đẩy đến chỗ không có lựa chọn nào khác, và khi ra khỏi hoàn cảnh đặc biệt ấy, lại trở về lối sống tầm thường cố hữu.”[9] Cách nhìn của Nguyễn Mộng Giác là một cách nhìn thấu đáo về con người, không bi quan, không lạc quan. Vẫn có sự tin tưởng ở con người, mà đối với con người, sự tin tưởng có phần dè dặt thì cũng đúng thôi. Vả chăng, một sự chờ đợi với những mong muốn quá cao về con người, nhất là lại được nhân lên bằng những lời đại ngôn hoa mỹ, có khi càng làm ta sớm thất vọng ở con người.
Có thể hiểu tính nhân loại phổ biến từ quan niệm Mạnh Tử về con người: “con người chỉ hơn cầm thú một chút”,[10] nhưng cái “chút” này có khả năng phát triển vô tận.
Nhiệm vụ của văn học là góp phần đưa cái “chút” hơn cầm thú ở con người phát triển vô tận, chí ít thì cũng giữ gìn cái “chút” đó. Cái “chút” đó, hết sức mong manh, đặc biệt dễ bị tiêu huỷ trong những ngọn lửa của tức giận và oán thù. Trong không ít tác phẩm văn học hải ngoại có những trang hoặc âm ỉ hoặc hừng hực bốc cháy lửa tức giận, hận thù. Lửa truyền sức mạnh cho sự tố cáo, sự lên án, nhất là khi hận thù có lý do chính đáng… Giận hờn và thù hận sẵn có ở những độc giả cùng cảnh ngộ với tác giả, được khơi dậy và bùng lên khi họ đọc những trang sách này. Tôi đặc biệt chú ý đến những tác phẩm trong đó tác giả tiếp cận chủ đề oán thù (và giận hờn) với cái tâm hoá giải oán thù (cái tâm này đôi khi bị chỉ trích gay gắt). Tiêu biểu cho loại tác phẩm này là truyện “Cánh Cửa” của Nhật Tiến. Câu chuyện xoay quanh mối quan hệ thù hằn giữa Trường, một sĩ quan cải tạo và Sủng, một công an “mặt non choẹt” làm quản giáo ở trại. Vốn sẵn có thành kiến với “tất cả những thằng công an”, “chúng nó không đáng làm người”, “chúng nó chỉ sống theo bản năng và gần gũi với loài vật” (xem sách đã dẫn, trang 191); trước một cử chỉ hỗn láo của Sủng, Trường nổi giận và hận thù, anh “tức giận và khinh bỉ nó đến tột cùng.” Cuối cùng hận thù và giận hờn được hóa giải. Không có sự “xóa bỏ hận thù”. Không có sự “quên lãng hận thù”. Có sự “hoá giải hận thù”. Không có người đứng ra “hòa giải”. Không có sự kêu gọi “lòng khoan dung” (càng ngày tôi càng nghi ngờ đức tính này). Sự hoá giải hận thù diễn ra ngay trong tâm trí của Trường. Đây là một quá trình trong đó những sự tiếp xúc gây ra những hiệu quả tâm lý nho nhỏ, nhưng hết sức quan trọng: Trường hiểu Sủng hơn, cảm thấy nó gần với mình hơn… Nhưng quá trình cơ bản là sự “quán tưởng” (contemplation) của Trường: anh tự vấn lương tâm, anh nhìn thẳng vào lòng mình để xem xét từng hành động, từng hành vi của mình, anh “vén những tấm màn che của thành kiến nông cạn” án ngự trong tâm trí anh, anh “đâm toạc bóng tối u mê của những nhận thức cực đoan, một chiều” luẩn quẩn trong lòng anh… ” Sự quán tưởng ở Trường thường xuyên làm việc, kết quả là Trường tự hiểu mình hơn và cuối cùng thì anh có cảm giác tự mình “giải phóng chính mình” (xem trang 196). Như vậy hận thù và giận hờn ở Trường được hóa giải chủ yếu là do Trường tự giải phóng chính mình và Trường đã đạt được điều này bằng sự quán tưởng, dẫn đến sự tỉnh thức ngay trong thù hận của mình.
Trong trạng thái vô minh của hận thù, con người – bất kể người nào – bị “xổ toẹt” dễ dàng, huống chi kẻ thù, nó là súc vật, bị đối xử còn tệ hơn súc vật. Và không chỉ kẻ thù. Con dao được giơ lên, không chỉ để “chém cá” mà còn để “bầm thớt”.
Sau đây là một cảnh trong tập hồi ký Đại học máu của Hà Thúc Sinh.
Một đám tù đương đứng tắm “chuổng cời” cạnh giếng. Bỗng nhiên quản giáo Dương xuất hiện, nhanh quá không ai kịp mặc quần áo. Những người nhanh chân nhẩy ngay đến những cái phuy đặt rải rác quanh giếng để giấu đi một phần thân thể. Bùi Vịnh, chậm chạp, khi ngó lại thì không còn cái phuy nào cả, anh đành đứng yên tại chỗ và giơ tay bụm lấy “chim”. “Quản giáo Dương bỗng mỉm cười ác độc…(…) “…hắn hét bảo Bùi Vịnh: Mày bỏ tay ra và giơ cao lên cho tao coi. Thân tù, Bùi Vịnh không thể nào làm được cái gì khác hơn là tuân lệnh. Anh đứng giữa sân, hai tay giơ cao, tồng ngồng như một con vượn. Tên Dương lừ một ánh mắt khinh bỉ rồi chửi: Mày có thấy mà dơ dáng dạng hình không? Mày phải nhớ rằng mày thua một con vật xét trên mặt tư cách. Vì con vật nó còn có cái đuôi, nó biết dùng cái đuôi để che giấu đi những cái không đáng khoe ra. Mày nhìn lại mày coi…”(…) “Trong khi quản giáo Dương đang chửi mắng… thậm tệ thì quản giáo Hồng… từ nhà hai bước ra phía giếng, không cần để ý đến sự có mặt của Dương, hắn hét mấy thằng tù đang lâm nạn:
-Mặc quần áo đi vào trong nhà, tôi nói chuyện.”
Quản giáo Dương nhìn Hồng uất ức ra mặt, nhưng có lẽ đã quá rõ tính Hồng nóng nảy, lại mang quân hàm trung uý trong khi hắn chỉ là chuẩn uý, hắn đành hậm hực bỏ đi một nước. Khi thấy Dương bỏ đi, Hồng quay lại đám tù cười cười nói nói một câu không ai ngờ:
“-Muốn tắm nữa thì cứ tắm đi. Nhưng đừng tắm truồng trước mặt nó. Thằng ấy nó mất vợ về tay ngụy các anh đấy. Cứ giơ b… ra trước mặt nó, nó thấy lẫm liệt, nó lại liên tưởng đến chuyện xưa và đâm uất lên.” (“Đại Học Máu”, xb năm 1985, tr. 443-444). Đây là một trong những trang thê thảm nhất của văn học Việt Nam.
Trong văn học ở trong nước cũng như ở ngoài nước, về chủ đề oán thù và giận hờn, có hai loại sách: một loại sách vô tình hay cố ý loan truyền oán thù, một loại sách thiên về sự hóa giải hận thù (không phải bằng những lời kêu gọi suông: nào đoàn kết, nào hòa giải, nào bỏ qua quá khứ…) mà bằng cách kiên trì vun trồng ở độc giả những nề nếp quán tưởng tạo ra sự tỉnh thức. Loại sau thuộc về tương lai. Chúng ta đương bước vào thế kỷ 21. Và “Thế kỷ 21 sẽ là thế kỷ của sự quán tưởng hoặc sẽ không có thế kỷ 21.” (André Malraux).
Sau đây là phong cách đa dạng của Miêng (bút danh của Nguyễn thị Xuân Sương):
“… Từ không khí ngột ngạt, đặc quánh của Cu Bợm, ta bước vào xốn xang, lo âu, của Song Sinh, rồi thoát đến cái nhí nhảnh hồn nhiên trong Ỡm Ờ, chất thơ của Hải Nữ. Ta bỡ ngỡ tự hỏi tất cả chừng ấy là cùng do một người viết? Miêng có cái khéo léo cuốn ta đi gần đến cuối truyện để kết luận một cách đột ngột, phần lớn trái với dự tưởng của người đọc…. Đâu đây, ta như thấy chị nheo mắt cười vì đã đưa thêm một độc giả vào tròng”. Nguyễn Nam Trân.[62]
Cái thần của văn phong Phan thị Trọng Tuyến thể hiện ở nụ cười của tác giả:
“…. Người ta có thể ưu tư mà không hề rầu rĩ… Phan thị Trọng Tuyến gần như luôn luôn có một nụ cười…”
Cái cười cho là của Hồ Xuân Hương nghe khiêu khích cợt nhả, cái cười của Linh Bảo lại chua chát đắng cay. Ở Phan thị Trọng Tuyến nụ cười vốn giản dị. Cười như nghịch ngợm hồn nhiên, như nét tinh quái thường ánh lên trên các gương mặt thông minh.
Ở đây, ta bắt gặp người phụ nữ Việt Nam trong một không khí tinh thần mới: tự do, khoáng đạt, cởi mở” (Võ Phiến).[63]
*
Còn thiếu rất nhiều bông hoa. Tôi lại không biết trình bày, sắp bó vụng về. Mong sự lượng thứ của quí vị độc giả và tác giả.
Hoàng Ngọc Hiến (nguồn Hội ngộ văn chương)
(Da Màu)
Comments