BỐN MƯƠI NĂM THƠ VIỆT HẢI NGOẠI (3): THƯỜNG QUÁN
- ductungducnguyen
- Jul 9, 2024
- 6 min read
THƯỜNG QUÁN
* Nhà thơ tại Úc. Du học từ năm 1974 trong chương trình học bổng Colombo của miền Nam. Tốt nghiệp đại học Monash tại Melbourne, làm việc trong ngành IT. Tác phẩm xuất hiện trên Văn, Văn học, Hợp lưu.
Hiện sống ở Melbourne, tác giả tập thơ Ngoài giấc ngủ do Văn Nghệ xuất bản tại California, năm 1990. Thơ anh xuất hiện trên các tạp chí tiếng Anh như Meajin, The age.
* Là một trong những tác giả quan trọng của thơ Việt hải ngoại và đồng thời của thơ nước Úc, nhưng Thường Quán chưa được nhiều người Việt yêu thơ biết tới, có lẽ vì thơ anh không dễ đọc.Hai tố chất căn bản của thơ Thương Quán là câu chuyện kể và nhạc điệu. Yếu tố tự sự thường chịu ảnh hưởng của những kinh nghiệm tập thể, lịch sử đất nước, chiến tranh. Những quan hệ và xung đột giữa quá khứ và xứ sở di dân, giữa văn hóa và các xúc cảm trữ tình có thể tìm thấy trong thơ anh, xét ở mức độ sâu xa và tế vi. Nhưng thơ cũng còn là một bài hát, khúc nhạc, được tấu lên bởi tâm hồn, và vì vậy thơ anh đầy nhạc điệu, mặc dù Thường Quán làm thơ tự do, không vần.
Không phải khi nào cũng dễ nhận ra tính chất chính trị trong thơ anh. Đó là một loại thơ hoài niệm có tính phản kháng, đầy rẫy các dấu ấn của thời sự, phả lên giọng điệu trữ tình, một ít rung động bồi hồi pha chất hài hước.
Thường Quán có thể viết bằng tiếng Việt hay tiếng Anh trong nguyên tác, và đôi khi, dù khá hiếm, tự dịch các bài thơ của mình qua ngôn ngữ thứ hai. Hiện nay chỉ có vài nhà thơ làm như vậy: sáng tác bằng ngôn ngữ mẹ đẻ và cùng lúc bằng một ngôn ngữ khác, chứng tỏ sự hòa nhập sâu xa của hai dòng chảy, như một thí dụ tiêu biểu của thơ song ngữ.
Như vậy, có thể nói, thơ anh có hai đời sống.
Văn Việt xin trân trọng giới thiệu.
GHI Ở KHÚC MCFADDEN, BISHOP, OC
Bạn đặt tên giùm đikhoảnh khắc nhìn ra bắt đượcmột hơi nắng một mùi khóithấy quen một ai đang băng quacùng độ mất hút gìbất khả.
Trưa như ở một bến xe bữa ăn của một người xếp xong va ligiữa những tiếng còi đang đổ về từ Lục Tỉnhtiếng rì rầm của trăm thứ động cơ khác đang quay, xa hơnSài Gòn của những cuốn sách treo ngon trên vỉa hèbạn đứng đó và đi quanhchẳng một anh tiên tri nào báo động sớm ngày sẽ vất chụm lửa hủy diệtcúi xuống nhặt một mẩu đá vụn của sở lục lộmột phần mặt đường đang chắp vá nhựa hắc ínchưa đủ tầm thấy cú ném đi của đá tới tận cùng một sức nổbạn còn trẻ.
Một bộn sách, một thể tích rắn lòng bàn tay ngửa ngửanhư thế bạn đã ngồi xuống ăn bữa cơm bụi trưa cuối cùng với một thành phốgiữa những thân me gầy hiển thánhbầu trời khói vô nhiễmngồi xuống một cái cớ để thực sự được nhìn.
Những gì đang lăn qua, chạy vút vụt, linh tính sắp biến mấtnhững gì sẽ đẩy tới tan nát hơnnhư khuôn mặtlấm tấmlàm dấu ở tránsớm ngày đi thành vòng trònkhúc rondo trung cổma trận một lôté lên nhau, ngớ ra, cuộc vây hãmnước bị trấn lột, lăng nhục[tất cả những thứ người gộp chung gọi là chuyện về sauchuyện không phải riêng của mắt mà của những hốc hố của khuôn mặt].Bạn bước đingoại ô diêm sinh chân trời chuyển giôngsự kiên trì nhẫn nại của đất và rễ nổitrên những vùng đánh dấuvùng bỏ rơi khoanh ngực chới vớitâm điểm nắng đột nhiênbạn chú ý một người đưa taytrong chiếc bị cói của con người ấynhững trang giấy báo rời, những mẫu tự la tinh nhàu nátmột bài ca chốt lại .
Làm sao nói về trận nắng nàygiữa bàn tay con người ấyvà bạnchiếc nón, mồi lửa, phép thử vừa phảilóe chớp ngày giông những xóm lá rụi rạ như chực cháymà bạn sắp rời bỏngười ấy và bạnnhững mảng mây mềm tất cả là bây giờbầu trời cũ kỹ tháng mườivỉa hè khô, hơi sạch sẽ, cát vụn chạy rờ rạcnhững căn nhà cây trái đang ra non, tròn lẳnnhững trái treo đầu những bờ tường thâm thấp ngăn tiếng độngmột trạm buýtnhững chiếc đầu trầnđầu trần như những chuyến đi biểnnhững chuyến kêu sớm vào vắng mặtbạn đứng lạilọt vào giữa trậnnắng và khóinắng và sự bất khảnắng và những chiếc đầu trần cũng là trở lại đẹp đẽ.
Không, sẽ thôi không đòi ở bạn một sự xướng danh nào nữa cảchỉ trừ mỗisự gọi tên những người bạn từng yêu mến.
10/2010
PASTERNAK, THÁNG NĂM, 1960
|
|
Một tốp tới, xầm xì rồi bỏ đi một ai đó một người nữa cuộc ghé nhanh và lặng lẽ bỏ đi nếu tín hiệu, hẳn đã lạc lệch, hãy để mộ khúc. Thềm cửa xa, đứng yên những khối mây băng sơn, những khuấy động, suy nghĩ những váng nước, những dấu nước, run rẩy tan vỡ những buổi sáng băng ngang đường, dù nơi đâu. Quay ngược, nghiêm nghị, chiếc màng tang, băng-rôn đỏ lùng nhùng, bục khán đài đội hiến binh bồng súng đại lộ thẳng tắp ngày công nhân chiếc đầu ngựa, anh, Mayakovski, chiếc đầu động từ đầu mỗi câu trên hàng lưỡi lê thép – một bậc, hai bậc, ba bậc. Sự tan trong lòng hồ, màu xanh ấm, xoa xoa tay, buồn buồn những cộng hòa lá nõn bên mạng sườn và chẳng phải nước, sự co lại đã bôi xóa những vùng cận sát ngực bạn Akhmatova, Gumilev ? Cà phê hầm, chỗ trống từng vùi ngôi cao, tháp chuông, đỉnh mái gió, những đường đi vẹt gót tăm tắp trầy thân bạch dương ốm, khảnh ăn, khăn quàng cố da trời ngày viện thuốc, khói, độ xanh ngâm, ngấm ôi ngực sườn! các bạn, sự thèm viết. Ga phương Bắc nhìn nghiêng đường mũi, gò má, gien Mông Cổ Khoảng cách, thời gian chiêm ngưỡng nội thành, cửa ngước, khô Petersburg, khoán tin ngày cho mai động nhớ Twaang! Một ai loạng choạng nhào vào chái bên. Suỵt. Ai ? Bạn nào ? Một xô đẩy đông khiếp và bốt giày đạp bấy nát một bất kể cả sáu dây chiếc thùng cầm ghi ta tiếng rồ to, ‘Thì cho nó được như cậu ấy.’ mũ hiến binh, cầu vai trang kim, khuôn mặt hồng chín viên sĩ quan, hai tay sau lưng chiếc vách chái nhà nông trại cuối đồng như tranh Goya: lỡ rồi, chỗ màu tươi mới bắn. Đúng là anh, Federico Garcia Lorca, đất mới Andalusia đất lập lại anh: sau cùng là im lặng. Và anh, Titsian Tabidze đất vỡ ngực, những con se sẻ không bao giờ quay lại đầu chái nhà anh, kể từ cuộc xử bắn ngôi sao tự treo nó lên xanh, không dây như một khúc dạo đầu thú: một thân lẽo đẽo trật trịa lưng đèo đeo toòng teng gói gì cái lưng ướt đầm đìa mồ hôi như đã vượt hết mấy ngày Tsibili hạ vực. R e e ng – bạn đứng chờ đó nhé – Thưa ai kia ? Tôi đây. Bạn có nhầm số? – Không. Này! [… một khoảng ngắt, bị tẩy trắng, không nhớ…] – Chẳng sao. Hỏi sự này. Chuyện Thơ cả: Nghe rõ chứ? Về Osip Mandelstam – Osip Mandelstam… – Đúng. Nghe rõ không? tôi muốn nghe anh, Boris Pasternak, nhận định: Osip Mandelstam vẫn đầu bảng thơ chứ ? vẫn số một chứ? – Thưa Đồng chí Joseph Vissarionovich Stalin: nhà thơ Osip Mandelstam là một người tốt – Vậy thôi à! – Vâng, thưa Osip Mandelstam là một con người tốt. – Tốt. Chào nhé! * Bị hất ngược xuống ghế, nằm ngó trân rầm trần loang lổ. Osip Emilyevich, chết! chết thực, mình có đã nói được cái gì đâu tôi hỏi anh anh có thấy tôi rách, rách, đáng tội tôi thế không ? Có đã đi vào câu chuyện đâu. Tất nhiên tôi sẽ không hé môi về sự ngưỡng mộ của những thành phố những góc tim kín thở cho anh nhưng, một cái nói bình thường về phẩm chất tuyệt vời của anh sao tôi đã không làm được, đã bị đốn ngang, chôn lửng, tệ đến vậy? Cái dằng máy xuống hơi mạnh tay, phải không? Quả quyết? Thỏa mãn? Chứng cứ đã đủ, phải không? Hãy nói, anh đã đi qua những đâu, Những vòng băng tuyết nào, Osip? tôi thù ghét tôi làm sao, hãy tha thứ * Và em, một vùng ngực thấp hơn, một hành lang, một buổi qua trưa sắp sửa chiếc cầu vai, khuôn mặt trong tối, không nhìn thấy cái dáng đi nhanh, không ngoái đầu, giữa họ, ánh nắng rọi đúng vào góc bẻ ngoặc sau lưng, căn phòng những năm, những cuốn tự vị những trang rời bỏ quên, trong dày kín đó, như vĩnh viễn chiếc bàn máy đã trùm lên, tấm vải màn ngăn bụi. Em, sau các bạn, sau tất cả, em sẽ bôi xóa tôi thế nào những mái tàu đơn rây sớm đi tan tuyết chảy dọc. |
MỘT LẦN MỘT
Ngẫu nhiên mà họ tới, ngã lưng vào bức tườngdưới ánh đèn chụp nhỏ vừa đủ sáng để chứng thực đêmtuần tự, yên lặng, trong trật tự.
Có lẽ họ có nói với nhau, nhưng sự im lặng của da nâu bóng,những chiếc gùi bắp thuôn thẳng, con trẻ đeo trước ngựcsự ẩn nhẫn cao nghều là ngôn ngữ duy nhất khua động.
Một người đi lấy vé tàu cho tất cả, ông ta là chiếc trán gợi nhắc đá.Bây giờ ông nhắm mắt ghè lửa vào chiếc tẩu cỏvà đi ra ngồi một chỗ riêng cuối hàng người.
Người xếp ga ở bên kia tường và một thứ sổ sách ǵ,giấy tờ, bụi bặm, chiếc đèn măng-xông, cuốn lịch, dấu xóa, loạn xạ vệt gạch,những chiếc ghế ngắn dài mời mọc không hành khách nào ngoài kia tha thiết tới.
Sự tĩnh lặng tự nhiên được giàn xếp bởinhững người yêu đêm tối, cứ là ngó mông vào đêm tốinhững ai trên đường chuyến tàu tới sẽ lặng lẽ bước lên.
Đêm mùa hè nó tới một lần một,con mắt đứa trẻ theo dõi.Những con cào cào trong chiếc lon đục những lỗ nhỏ.
Chúng đã bớt nhảy loạn, khua khoắng.Chúng đang được thả ra.Côn trùng học đang đi ra, gió thay thế nó.
Những kẻ đi lên với chiếc lưng thẳng, chiếc cổ cao [cây rừng]:nhân chủng học ngẫu nhiênđang thay thế nó.
|
TRẠM Chuyến xe đỗ xuống. Chúng ta bị tách ra như những phạm nhân hai bè giới tính tôi sẽ thức dậy cạnh những ông già (mốcthảm hại) và em, biết đâu mãi mãi tôi sẽ không gặp lại sau chừng ấy tháng năm (hết cả cuộc đời tôi). Căn nhà hoang tàn rộng lớn chặng cuối chuyến đi vòng hành tinh đã trả vé hẳn hoi. “Kết thúc sẽ bất ngờ.” Người bán vé chẳng đã cảnh báo? Tôi sẽ không còn em, không còn thế giới căn phòng nhỏ như một cabin, trần thấp, phòng trọ ngày Van Gogh chiếc giường gỗ đơn, giảm trừ bàn viết. Người quản gia Thanh Giáo sẽ cho tôi thêm một thau xanh rửa mặt để hứng những trận tuyết giữa hè. |
TRỞ LẶI
Tráng lên mặt gỗ, bụi, một trải đều, phẳng, những ngày đi vắngCăn phòng, chiếc cửa, màn mành, một nửa,Những tờ tin cũ, thế kỷ nhật trình—Đã đi qua lúc nào? Góc bàn những trầy xước, móngCủa một khách tạm trú, một gã mèo rình rậpTrong bóng tối đêm, những đêm, khum lại mắt rợn xanh nhìn ra lưỡi kiếm liễu cong.Những chiếc răng non, đứa trẻ quay lưng, nó thơ thới gặm nhấm, giấy,Mùi dâu trên chiếc đĩa con, tiếng còi ga muộn, trong bó bản thảo kề bênĐã tránh được cú vồ chụp, đã để lại những vụn phân bông đùaĐã thoắt một cái chạy hình chữ chi, như tránh đạn.Thế là mười mấy năm? Có gì còn đáng để tâm? Tiếng buột thốt bất ngờNhư bị trúng một hình ảnh:Một đám mây hình nấm một chiếc dép trên đá sạm một album vuông vuông như bánh lá gói, giữa tro tànHay một người đàn bà ngồi im, một đắm chìm như thểBa sinh không lìa bước đã thấy ở một quán nước bên Vườn Bách Thảo Tokyo.Trở về trong ánh sáng, đặt chiếc chìa khóa, cạnh ngòi bút rong, hư dụngHút một ngòi mực, gạch xuống những đường thẳng, không quá nặng tayCó thể đứng, năm phút thôi, tia nắng mùa Đông đầu tiên sẽ tới từ hướng núiCó thể để chiếc kim trên vòng đĩa một khúc dạo rèHay ngồi xuống, gọi không khíCho chiếc tách, cũng bụi, cũng cần một lau sạchVà bắt đầu trở lại, như bên ngoài, một ngày.
GIÓ
gió vẫn thổingười vẫn đi dưới bầu trờisuy nghĩvề những người đã rời bỏhọmột hôm nào đã gởi đimột địa chỉ rời trên trái đấtmột lời tử tế thân áikhông thể cókhông thể đếntừ Thần hay Trời
NGƯỜI BẠN
năm tháng hay sự keo lòng đau đớn gì, niềm gì dày vòchúng trở lại mang khuôn mặt người bạnchúng tôi đứng nói chuyện ngoài trờingoài một căn phòng chắc là còn trẻ, nhiều tiếng giọnganh ta hỏi, về cái gìđiều có thể làm, chuyện gì ngoài tầm sứcsự thất vọngngười sống kẻ chếtmột danh sách dàingang bằng sự thất vọngsự kiệm lờicái vỗ vai nhẹ tử tếkhuôn mặt khoảng cách dày, tốinó nằm trong bóng đêm, dưới tán cây ngoài những căn phòngcủa loài người.




Comments