Hoàng Trần Cương, Ngôn Ngữ Quê Hương
- ductungducnguyen
- Jun 24, 2024
- 16 min read
HOÀNG TRẦN CƯƠNG, NGÔN NGỮ QUÊ HƯƠNG
Nguyễn Đức Tùng
(trong Đọc Thơ)
Nông thôn Việt Nam đang tan vỡ.
Thậm chí, ở vào giai đoạn cuối của sự tan vỡ.
Thơ cố gắng đi tìm lại những mảnh vỡ của chúng.
Ở đâu? Trong tiếng nói thất lạc, những đứa trẻ bên lề, thơ tìm lại không chỉ mảnh vỡ mà cội nguồn của chúng. Thơ đi tìm ý nghĩa. Đối thoại, tra vấn, nối kết. Như lời kêu gọi:
Lần đầu tiên cha nghe tiếng con thất lạcCha ơi chaCon xin cha đừng bán đấtRồi biết kiếm đâu ra nước giếng ngọt thế này
Nhưng thường thì Hoàng Trần Cương nhẹ nhàng hơn, anh chỉ tả lại, kể lại câu chuyện của mình:
Ngày tảo mộ cả làng dậy sớmNgạt ngào xôi nếp thơmMùi cỏ dại cay nồngMùi hương bay ríu giọngNhững chi tộc gần xa về hội ngộMơ hồ phấn mưa bay
Mỗi lần đọc đoạn này tôi đều nhớ cảnh làng cũ của mình, nay không còn nữa. Tôi nghĩ, Trầm Tích của Hoàng Trần Cương là cố gắng đi ngược tan rã, là tiếng nói của trở lại, phân tích, cất giữ, chống lãng quên. Và, tôi muốn thêm, chống lại sự lưu manh hóa nông thôn.
Thơ anh là phối hợp của trường ca và trữ tình.
Trường ca, như một thể thơ, sau mấy mươi năm, vẫn còn lạ đối với nhiều người. Khởi đầu bởi các nhà thơ miền Bắc và trong chiến tranh. Đó là sự phối hợp giữa ít nhất ba truyền thống: thơ trữ tình, thơ chính trị, các trường ca tự sự, như sử thi Tây Nguyên, trong bối cảnh đương đại. Thật ra phân biệt sử thi và trường ca là khó, tuy nhiên có thể cho rằng truyện kể và nhân vật anh hùng là hai đặc trưng cho sử thi truyền thống, trong khi trường ca hiện đại kết hợp các yếu tố trữ tình cá nhân, sự phá bỏ cốt truyện, đời thường hóa. Nếu ba khuynh hướng sau này được đẩy đi quá xa, ngoài tầm kiểm soát của tác giả, trường ca chỉ còn là bài thơ dài, ngụy trang như một thể loại riêng biệt.
Sợ con nít lằn lưng trên cái chõng đan bằng tre cậtKhông biết ai đã luồn vào dưới lưng tôi một tấm mo nangCái mo cau mẹ lượm được ở cuối vườn từ năm ngoáiĐem vào giấu trong buồng và lấy đá dằn lênTôi mát lạnh trong hơi của đáNhắm mắt ngủ ngon lành
Một đoạn ngắn của trường ca mà đầy đủ như câu chuyện trọn vẹn. Trầm Tích có nhiều đoạn như thế, nhưng chúng nối mạch vào nhau liên tục không gián đoạn.
Trầm Tích gồm mười chín chương, chương đầu là Nguồn Cội, chương cuối là Miền Trung, với dung lượng chia đều cân đối. Ra mắt từ 1989, giải thưởng Hội nhà văn Việt Nam năm 2000. Hoàng Trần Cương còn viết những bài thơ ngắn, và sau Trầm Tích, những trường ca khác nữa, nhưng nhìn chung chúng chưa sánh được với đỉnh cao này.
Câu thơ ngắn của anh "cấu trúc của làng" có thể dùng để mô tả khái quát tính không gian và tính cấu trúc của tập thơ. Ẩn dụ trung tâm là miền Trung, xứ Nghệ. Một cái làng. Làng là cấu trúc của gia đình, huyết tộc, tình nghĩa. Làng là cấu trúc của tình yêu. Trầm Tích tràn ngập những câu thơ đẹp. Nhan đề ẩn chứa sức mạnh của lối chọn chữ đặc biệt của tác giả. Có lẽ anh muốn nói đến các vỉa tầng địa chất, đá trầm tích, chứa đựng hóa thạch. Nơi cất giữ cội nguồn văn hóa tan tác. Khó có một nhan đề nào đúng hơn. Thể trường ca cổ điển, như dùng để kể các sự tích anh hùng, đã được làm mới lại bởi các nhà thơ Việt Nam trong mấy mươi năm nay, bằng cố gắng kết hợp với những yếu tố của nghệ thuật hiện đại. Trường ca hiện nay tuy vậy vẫn còn chất tụng ca, ngay trong những tác phẩm đời thường nhất. Nhiệm vụ của tác giả trường ca là tìm trong ngôn ngữ hôm nay những yếu tố của sự thay đổi của đời sống một cách chủ động, tức là việc tạo lập thế giới mới. Tôi nghĩ, đây là những sáng tạo: kết hợp tính bi hùng, tính trữ tình, chất tự sự, tính triết lý, và cấu trúc chương hồi. Ngay cả khi nhà thơ phá vỡ quy ước cổ điển, thì trường ca vẫn là câu chuyện kể và vẫn phải kể với đám đông: nó phải lên giọng.
Những gì đã cóCố đừng để mất
Sự phân chia trường ca và thơ ngắn chỉ là ước lệ, có ích cho một số phân tích, nhưng sự phân chia ấy có thể giả tạo, vì mối quan hệ giữa chúng là phức hợp. Sự nhấn mạnh quá đáng vào các định nghĩa thể loại như một cái mốt học thuật đã làm hại sự thưởng thức đối với nhiều tác phẩm vượt làn ranh. Thơ Hoàng Trần Cương mô tả trung thực những hoàn cảnh khốn khó của con người trong môi trường khắc nghiệt, thậm chí tàn bạo và thù địch, một hoàn cảnh xã hội khắc nghiệt không kém, với những bất công và tội ác đã được nhiều người nói tới hay vẫn còn bị khuất lấp:
Mẹ ơiTận bây giờ con vẫn còn hoảng hốtCái buổi chiều những tưởng cha điBỗng dưng trời đất thâm sìLốc rừng dựng đứngGiông bão ùa về lừng lữngMây đặc trờiTối bưngGió chémMưa đâmSợi dây trói nới thầmTừ tay cha rụng xuốngMẹ bảo: May mà trời có mắtCha không nói gìNgười lẳng lặng cầm sào đi xốc lại cây rơmNhững bất hạnh này, dù được giải thích hay chỉ được biện hộ, đã nhận ra khuôn mặt người làm chứng của chúng giữa đám đông (*). Những câu thơ chua chát và ngọt ngào của anh nói về lòng dũng cảm, sự hy sinh, tha thứ và bao dung, nói về chiến tranh, những mất mát, cũng nói về hòa bình, với niềm vui và thất vọng, nhưng cao hơn hết, thơ anh nói về lòng tri ân trước cuộc đời, trước đất trời, đất nước. Vì anh có câu thơ "dâng tặng mùa màng", nên tôi nghĩ, như một lời dâng tặng. Một nghi lễ. Hãy nghe anh kể chuyện khởi đầu:
Mẹ tôi đẻ rơi tôi bên cối giã gạoTôi lấm láp đáp mình vào đấtGió Lào mặc cho tôi chiếc áo màu nâuCha đi vắng
Giọng thản nhiên, mộc mạc, nhưng cách dùng chữ của anh kỹ. Chỉ bằng một khởi đầu thế thôi, người ta có thể biết bài thơ sẽ đi xa, bao quát: người mẹ nông dân tần tảo làm việc đến lúc đẻ bên cối giã gạo, đứa con ra đời lăn mình vào đất, rồi đứng lên từ đó, giữa đất và gió Lào, màu da sạm nâu, nhà chỉ hai mẹ con.
Những người đàn ông miền Trung thường đi vắngVài năm tạt qua nhà một lầnĐể lại đứa conLà một nhà thơ hiện thực, chịu nhiều ảnh hưởng của văn chương lãng mạn, có lẽ hơi muộn, Hoàng Trần Cương nắm chắc kỹ thuật mô tả sự vật, nhưng không ngừng tìm cách mở rộng các ứng dụng của chúng, đặc biệt cách chọn chữ, ngắt câu, thay đổi giọng điệu ở các khúc quanh, từ trần trụi, gay gắt, đến nhẹ nhàng buông thả. Một nhà thơ non tay sẽ dừng lại ở ba câu trên. Nhưng câu cuối sau đây mới đúng hồn người Việt nam.
Để lại mùi rạ thơm trên mái nhà vừa dọiHoàng Trần Cương sử dụng một số thủ pháp nghệ thuật đặc sắc. Các câu hầu hết ngắn, số chữ thay đổi, các chữ được xếp gần như chen khít vào nhau, như bức tường toàn những tảng đá ghép lại không có vôi vữa, mà vẫn chặt chẽ bền vững.
Dằng dặc dải làng quê thưa thắtNhững vạt lúa đỏ đuôi luội mình đổ rạpChỏng chơ nồi cơm ngày đói khátĐôi khi cũng với một ngôn ngữ chặt chẽ như vậy, anh học được cách tách chúng ta, buông thả, và do đó làm cho câu thơ trở nên nhẹ nhõm hơn, trở nên man mác bồi hồi, chỉ trong vài chữ ngắn.
Buồn có mang tình sông Lở bồi tức tưởi Niềm vui đỏ ớt Cay mờ tháng năm
Hoàng Trần Cương có những câu cuối mênh mông, giàu tưởng tượng, nâng cả một đoạn thơ lên như đoạn vừa rồi. Khó viết (original). Trong khi những câu được nhiều người khen, thật ra là những câu nhiều tu từ, và có lẽ dễ lập lại hơn:
Miền Trung mỏng và sắc như cật nứaChuốt ruột mình thành dải lụa sông LamĐây là ví von. Cái tài của anh khi mô tả một cảnh sinh
hoạt cụ thể :
Đọi cà pháo chất cao có ngọnRồi khoai lang ngọt bùiĐêm quê kiểng lành hiềnChuyện trò như ngô nổNhững khát vọng niêm phong vào Trầm TíchCất giữ sơ sài trong bóng trăng non
Mặc dù đôi khi cũng gượng ép:
Những con cá ươn trên thúng mẹt chợ quê
Ton tót nhảy khi nghe hơi tiền mới
Hình ảnh đẹp nhưng chưa hoàn toàn thuyết phục:
Trăng đầu tháng đỏ ngầu
Như cái bã trầu ai nhè ngang đỉnh núi
Bên dưới một vẻ ngoài chân quê mộc mạc, thô ráp, thơ anh buồn se sắt, có nhiều suy nghĩ bất ngờ, vượt lên so với các nhà thơ cùng thời, đi hẳn ra ngoài lề thói cũ, có sự nghi ngờ triết học. Đó là khuynh hướng hiện đại (**). Nhưng khác với hiện đại Tây phương, anh không bi quan; mô tả chiến tranh nhưng ít lên án; mô tả sự khắc nghiệt tàn bạo của con người hay thiên nhiên nhưng không kèm lòng oán giận.
Ôi! Quê hươngCái đòn gánh trĩu hai đầu đất nướcGió bão thù chi với mảnh đất nàyNối đuôi nhau xếp hàng ngang đen sì ngoài biển
Than mà không trách. Cũng một giọng ấy anh đã dùng khi nói về sự kiện khác, bạn bè, chiến tranh, xã hội. Dung lượng lớn của một trường ca cho phép anh kể nhiều chi tiết, thậm chí có những ý trùng lặp, những đoạn thừa ra. Có những chương thật hay, xuất sắc, như Nguồn cội, Miền Trung, Đá đỏ, trung bình như chương Cá gỗ, yếu và loãng hơn như Vốn và lãi, nhưng ngay cả ở những chương chưa xuất sắc vẫn có những câu thơ làm người đọc dừng lại.
Trầm Tích có cấu trúc cân đối, có các liên tưởng song song, không phải chỉ dùng làm cho câu thơ trở nên bóng bẩy, như các danh từ đi với danh từ, động từ đi với động từ, mà tạo ra sự hợp lý cho một ý tưởng. Đến lượt chúng các ý tưởng trong cả một đoạn dài cũng phải phù hợp với cấu trúc song song.
May cho làng còn lại cây đaCây đa đề không ai rõ tuổiTrẻ con trốn học chui vào hốc đaSáo đen uống nước chui vào hốc đaQuạ khoang rình mồi chui vào hốc đaNhững câu chuyện của bàTừ cây đa bươn raNhờ cấu trúc song song này mà các ý tưởng trong toàn bài, các sự kiện được mô tả, trong khi lập lại về tu từ, thì lại không lập lại về ý tưởng và không gây ra nhàm chán. Nếu cứ thế đi xa hơn nữa, mà điều này cũng đôi khi xảy ra trong Trầm Tích, các câu thơ về sau sẽ đuối dần, như một người đánh đu quá lâu trên rễ đa, thế nào cũng rớt:Những niềm tin của conTừ cây đa buông rễBóng đa là nơi giấm những vui buồn thành của ăn của đểBóng đa là phong vũ biểu của làngBóng đa tàng hình con ma cố BợVân vân. Mặc dù sử dụng thể tự do, các câu dài ngắn thường xuyên thay đổi, chất giọng của anh có nhạc điệu riêng, thống nhất từ đầu đến cuối. Anh nói về quê hương, nhưng đó không phải thơ hoài niệm. Một thế hệ các nhà thơ gần gũi Hoàng Trần Cương cũng không có khuynh hướng hoài niệm. Sự hiện diện của quá khứ trong khi không phải là yếu tính đầu tiên thì cũng không phải là sự trang sức. Sự tồn tại của chúng là hiển nhiên và đơn giản, cấu thành một phần của đời sống hôm nay. Sự tích hợp hiện tại và quá khứ là thay thế cho nỗi buồn, sự lo âu, sự thất lạc. Sự thay thế ấy sẽ thành công đến đâu, tôi không biết. Hoàng Trần Cương không dựa vào các thể thơ cũ, nhưng những câu thơ của anh, trên trang giấy, tạo nên một hình thức, một dạng thể rõ ràng. Thơ anh không những chỉ được nghe bằng tai mà còn được đọc bằng mắt. Và ngược lại. Biểu tượng của tình yêu quê hương trở thành tia chớp, chúng giữ lại hơi nước, cơn bão, vì sức mạnh của ngôn ngữ Hoàng Trần Cương không những được thể hiện mà còn được nén lại, giữ lấy, chờ đợi. Cảm giác như có một lực hiện diện trong những câu thơ của anh, một lực đẩy, sức hút, rất vật chất (***).
mảnh đất nghèo mồng tơi không kịp rớtchỉ gió bão là tốt tươi như cỏ
Câu thứ hai làm tôi phân vân, nửa muốn giữ lại nửa muốn bỏ ra. Sự kếp hợp giữa hài hước và trữ tình là việc khó nhất của các nhà thơ Việt Nam hôm nay. Nhưng Hoàng Trần Cương nhanh chóng vượt qua cái khó ấy: trong một kho từ vựng hạn chế, anh có một vốn suy tư rộng lớn, vạm vỡ chờ đợi. Tôi ví dụ, anh có thể triết lý mà không rơi vào bẫy vụn vặt:
Không gian mênh môngĐầy giới hạnThời gian vô tậnMãi long đongNgửa mặt va ngàyMở mắt vấp đêmNgã ba ngã tưĐèn vàng đèn đỏĐi khóVề cũng khóLối trước ngõ sauNhan nhản lõm lồiSắp đặt đời mình đâu chỉ tự mình thôi
Nhân bàn về từ vựng, chúng ta có thể thấy ngôn ngữ Trầm Tích có những đặc điểm sau:
- Nhiều từ địa phương: mặn và khắn, thâm sì, dọi...
- Những từ phổ thông nhưng dùng nhiều ở một địa phương: mùi rạ thơm, khét
- Nhiều tính từ. Mục đích của chúng là làm thay đổi nghĩa, làm tăng cường:
Mùi cỏ còn đắng nghét đến hôm nayMùi cỏ dẫn con vào năm tháng thơm lànhMùi cỏ mặn và khắn như lông bò tẩm nắngMùi cỏ khét dây trói tay cha
Như vậy trong bốn câu thơ có năm tính từ. Đắng thì đắng nghét, thơm thì thơm lành.
- Dùng các chữ lấp láy: lục đục, hì hục, mướt mịn, mượt mà...
- Dùng nhiều động từ hoặc động từ kèm theo trạng từ mạnh: đứng lì, dong mưa, trào sặc sụa, gió chém, mưa đâm...
- Phương pháp nhân cách hóa dày đặc. Các sự vật đều như có hồn, chia sẻ đời sống với con người:
Mưa giờ ngọ chưa qua gió giờ mùi đã đếnCay đắng lắng vào trái ớt lúc còn xanhĐất vắt kiệt mình nước mọng múi chanh
Các phép so sánh với tần số cao:
Ngày xưa lúa tự bò về nhàHạt to như bắp chuốiKhi chưa bị người ta xua đuổiNắng vàng mơ từ mờ sớm đến chiều hôm Câu ví dặm gầy nhom thì thào như người mới ốmTuy vậy vẫn có những nhân cách hóa vội vàng, chưa thuyết phục lắm: Một sáng quân thù ập đếnĐã thấy tre chống nạnh đứng trước thềm
Làm thế nào để biết một phương pháp nhân cách hóa là hợp lý và thuyết phục, hay ngược lại? Ẩn dụ và nhân cách hóa là sự chuyển dịch từ một sự vật này đến một sự vật khác, giữa chúng là một khoảng cách không được quá gần và không được quá xa. Quá gần thì nhàm chán, quen thuộc, quá xa thì trở nên gượng gạo, vì giữa chúng không có liên hệ nào. Vậy phép tu từ của Hoàng Trần Cương thật khó nhọc và tài hoa. Không hiểu sao, tôi vẫn thích những câu mộc mạc này hơn:
Anh sẽ về quê kiểng Nằm xoài trên cỏ non Mặt không cần úp nón Nhấm ngọn mưa đầu nguồn
Những đoạn thơ như thế đều có thể đi lướt qua bên mình bạn, xúc động đến nỗi một vài chữ dù chưa thích đáng, vẫn không cản được cái momentum của nhiều dòng. Sự suy nghĩ dân quê, những lề thói cũ kỹ ảnh hưởng trầm trọng đến sự tiến hóa của dân tộc, về hướng dân chủ và văn minh, những lề thói ấy cũng được bộc lộ trong nhiều câu, có thể vô thức:Đói cơm còn chịu đượcĐói chữ thì khổ toTrong làng người già bảoPhải ra thị thành thôi
Cái học hiện nay ở nước ta vẫn là cái học từ chương, toàn bộ là dẫn đến hai mục đích: làm giàu hay làm quan. Ở đây còn có truyền thống bỏ làng ra đi, tìm tương lai ở thành thị: đầu mối của sự hoang tàn trong khi nông thôn là cái nôi đạo đức, văn hóa. Không phải trong chiến tranh mà phẩm giá con người được thử thách; chính đời sống dân sự thời bình mới là phép thử hiệu nghiệm nhất: những phượng hoàng chiến tranh gãy cánh.
Cho con biết cười biết khócBiết yêu người mình yêu như chính yêu mìnhBiết bạn bè không có nhiều lắm đâu dẫu mặt đất ngày càng đông chậtKhác với thơ, trường ca viết cho người đọc, hướng tới người đọc. Nhưng độc giả của anh ở đâu? Điều cốt lõi có lẽ là yếu tố nhân vật và tính chất đa nhân vật. Vì sử dụng nhiều nhân vật, nhà thơ cũng dùng phương pháp mặt nạ. Một trường ca có lẽ cần tránh các khuyết điểm: quá dài một cách không cần thiết, quá nặng về lời kể, về cái tôi trữ tình của tác giả. Sự kể chuyện cần phải có nhiều giọng, có tính đối thoại, cần tránh tính chất văn xuôi được vần hóa, biến thành một bài thơ tự bộc lộ mình như thi hóa các hồi ký. Tuy nhiên nếu thành công, trường ca hơn hẳn các loại thơ ngắn vì tạo dung lượng lớn, sự tiếp xúc thường xuyên, tính chất huy động, tính phát hiện cao, khả năng làm thay đổi suy nghĩ và tình cảm của độc giả là lớn. Trường ca nhất thiết phải nói được sự thay đổi của một nhân vật, bộc lộ những điểm yếu và điểm mạnh của anh hay chị ta, làm cho người đọc hóa thân thành nhân vật. Đọc một trường ca xong người đọc thấy xứng đáng với thời gian mình bỏ ra, và họ sẽ đọc lại. Trong khi thơ trữ tình Việt Nam đang vận động nhanh về phía chủ nghĩa hiện đại và hậu hiện đại, thì trường ca di chuyển chậm: cấu trúc, sự cân bằng, truyền thống, ca ngợi cái cao cả và vững bền, tính cách dân tộc. Tháng Tư năm 2008 trên căn gác của nhà thơ Hoàng Cầm, tôi đã được nghe tác giả đọc một trích đoạn của Trầm Tích, giữa những người khác, Nguyễn Trọng Tạo, Du Tử Lê, Nguyễn Thụy Kha, Phạm Xuân Nguyên. Lúc đó anh hơi say, sau một bữa uống ngoài trời nóng nực, nhưng vẫn minh mẫn lạ lùng. Anh thuộc hết các đoạn thơ. Tôi ngạc nhiên về một thứ ngôn ngữ chưa hề nghe, đậm đặc, giàu có, tha thiết đến thế.
Nếu so sánh với trường ca của người cùng thế hệ và hoàn cảnh lính chiến, sẽ thấy Hoàng Trần Cương ít nhắc đến chiến tranh, ít nhắc đến chi tiết cụ thể của cuộc binh đao. Anh không thiên về việc sử dụng bút pháp anh hùng ca. Phong cách của Hoàng Trần Cương rõ ràng khác biệt, cách dùng chữ của anh nặng tính khách quan, nhưng đôi khi lập đi lập lại cùng một giọng điệu, đôi khi cũng khá cũ. Điều này làm anh vừa khác so với người khác vừa hơi có chút quá đà, nặng tính chất địa phương. Mối quan hệ giữa một bộ phận và cái phổ quát, giữa tính riêng tư và khả năng chia sẻ, là mối quan hệ mà tất cả những người viết đều phải giải quyết.
Mẹ tôi đẻ rơi tôi bên cối giã gạo
Rất riêng mà vẫn có tính lịch sử. Tôi cũng nghĩ đến tính chất bi kịch trong trường ca. Lúc nào thì bi kịch hóa trở thành một thủ pháp nghệ thuật đắc địa, lúc nào thì không. Anh viết về chiến tranh mà như không phải về chiến tranh, thật ra, tình mẫu tử trong chiến tranh:
Đêm Trường Sơn nhập nhoà pháo sángCon máy mắt liên hồiChắc mẹ thầm nhắc gọiXin mẹ đừng lang thang ra ngoài ngõĐừng tựa lưng thêm vào nơi mẹ đứng chờ conĐó là giá trị cộng đồng khi một nhà thơ nói về cá nhân. Trầm Tích là thơ tâm linh, lễ dâng hiến. Là lời hát tặng làng xưa, kinh cầu, tiếng sóng vỗ dòng sông, lời ca ngợi hòa bình, mồ hôi của đất, muối của cánh đồng, ý chí của cỏ cây. Khả năng quan sát đặc biệt của Hoàng Trần Cương cũng dễ nhận ra:
Những vạt lúa đỏ đuôi luội mình đổ rạpChỏng chơ nồi cơm ngày đói khátSự phức hợp về ngữ pháp của một câu không phải là sự phong phú của đời sống. Khả năng quan sát mới là khởi điểm của sự tưởng tượng, của chiều sâu suy tư, vì vậy suy tư của tác giả, những ý tưởng, bắt rất sâu trong đời sống, có sức thuyết phục hơn cả.
Trong trường ca, cần thấy thủ pháp đổi giọng của tác giả hay người kể chuyện là rất cần thiết.
Em là cơn mưaVỗ về nắng hạnXanh như tán láCần phân biệt giữa một bên là việc làm chứng, thơ như một nhân chứng, và một bên là mang lại hiểu biết, tin tức, về một thời đại, một vùng đất. Vào lúc này, sự tan rã của văn hóa nông thôn, và tất nhiên cả văn hoá thành thị, mà chúng ta tạm thời không đề cập ở đây, chính sự hỗn loạn này là động lực sâu thẳm của thơ, kẻ đi tìm diện mạo đích thực của tâm hồn. Trầm tích mà Hoàng Trần Cương phát hiện không phải là những kết tụ theo thời gian một cách thụ động, không phải là hoài niệm của người lớn tuổi đối với tuổi thơ mà là vận động có ý thức, là tình yêu được cấu trúc như một ngôn ngữ. Trầm tích ấy của anh chính là thông điệp, là lời kêu gọi đối với con người: trung thành, giữ lại cái chúng ta đang mất, giữ lấy điều chúng ta đang đập vỡ. Có một cân bằng thường xuyên thay đổi giữa hoàn tất và chưa xong, giữa phá hủy và sáng tạo, giữa tự bộc lộ bản thân và mô tả khách quan đời sống, sự cân bằng ấy làm nên sức mạnh của Trầm Tích.
Với Hoàng Trần Cương, ngôn ngữ là quê hương. Không những thế, ngôn ngữ và quê hương là một. Một vật thể, một thực hữu, cần được giữ gìn nguyên vẹn.
Đối với thực hữu ấy, thơ trữ tình là ký ức, trường ca là ký ức tập thể.
NGUYỄN ĐỨC TÙNG
Chú thích:
(*) Trần Vũ Long - "Người thơ trầm tích":
"Vào một buổi trưa, cậu bé học vỡ lòng hớn hở chạy về thì thấy nhà cửa tan hoang rồi bị niêm phong lại. Mấy mẹ con bà cháu bị dân quân đẩy ra ngoài đồng, sống chết mặc bay. Cay đắng hơn, người cha của ông là một đảng viên từ năm 46, đang là Chánh văn phòng Uỷ ban kháng chiến tỉnh Nghệ An bị quy là địa chủ đầu sỏ và bị dẫn ra hành hình ngay trong chiều hôm ấy. Tất cả mấy mẹ con bà cháu cũng bị lùa ra để chứng kiến cảnh tượng ghê rợn đó. Trong trí nhớ của cậu bé Hoàng Trần Cương khi đó như in cảnh sáu dân quân cầm súng trường đang chuẩn bị giương lên, mấy mẹ con bà cháu thì sợ sệt rúm ró vào nhau sau vành móng ngựa kết bằng dây chuối. May thay, khi mà cha ông đã bị trói vào cột, giờ hành hình sắp đến, trời bỗng nổi trận mưa giông, tất cả dân làng bỏ chạy tán loạn. Pháp trường vắng hoe, chợt người đội trưởng đội hành hình hét lớn: “Nỏ ai xem thì bắn mần chi”. Vậy là buổi hành hình bị hoãn lại sang ngày hôm sau. Nhưng, ngay buổi tối hôm đó, có lệnh sửa sai, một chiếc xe ôtô đít vuông đã mời bố ông lên xe rồi đưa ra Vinh. Mấy tháng sau gia đình mới được biết bố ông được đưa ra Hà Nội công tác. Trong khoảng thời gian đó mấy mẹ con bà cháu vẫn sống trong một túp lều lụp sụp giữa đồng không mông quạnh, đi mót khoai, mót lạc, mò cua bắt ốc, làm thuê cuốc mướn để sinh sống."
(**) Czeslaw Milosz: "when poets discover that their words refer only to other words and not to reality which must be described as faithfully as possible, they despair. This is probably one cause for modern poetry' s somber tone".
(Stephen Dunn, Walking light, Norton, 1993, p.15)
(***) Có lẽ vì vậy là Nguyễn Trọng Tạo cho rằng tác giả có một thi pháp động. Xem thêm:




Comments