top of page

QUÀ VĂN CHƯƠNG:

  • Writer: ductungducnguyen
    ductungducnguyen
  • Feb 24
  • 14 min read
ree
ree

ree

















Quà của anh chị Nguyễn Thị Thanh Xuân và Huỳnh Như Phương là hai cuốn sách quý, tôi nhận được đã lâu, từ bữa về Sài Gòn, nhưng nay mới có thể dành trọn cuối tuần để đọc.

Gởi đây chút duyên tình đọc của Nguyễn Thị Thanh Xuân.

Hồi âm từ phương Nam của Huỳnh Như Phương.

Cả hai cuốn đều in ở NXB Đà Nẵng, sách thật nền nã, mềm mại, đẹp. Tôi cầm trong tay như cầm tay một người bạn. NXB danh tiếng này vừa mới bị đóng cửa, không lẽ vì nó thích cái đẹp ?

Tôi đọc cuốn Gởi đây chút duyên tình đọc và rơi vào cảm giác thú vị như trò chuyện với một người thân, quen biết đã lâu, giọng văn ấm áp, tinh tế vô cùng. Chị Nguyễn Thị Thanh Xuân là phó giáo sư tiến sĩ văn học, quê ở Quảng Nam. Chị viết về Bích Khê, Hồ Hữu Tường, Tô Hoài, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Phùng Khánh đều hay.

Anh Huỳnh Như Phương quê ở Quãng Ngãi. Hai anh chị thuộc thế hệ những người cắp sách đi học ở miền Nam và sau năm 1975 đi sâu về nghiên cứu văn học, rất nổi tiếng ở trong giới nghiên cứu phê bình.

Hồi âm từ phương Nam là tập hợp 36 bài báo viết về thơ, văn học nghệ thuật, lý thuyết văn học của Giáo sư Huỳnh Như Phương. Anh viết về Nguyễn Vỹ, Ngô Kha, Diễm Châu, Tường Linh, Ý Nhi, Thích Nhất Hạnh, Nguyễn Văn Trung, Võ Hồng, Nguyên Ngọc, Hoàng Ngọc Biên, Cao Huy Thuần, Thanh Thảo. Anh là trưởng khoa ngữ văn - báo chí của Trường đại học Khoa học xã hội và Nhân văn TP.HCM, 1994-2001.

Huỳnh Như Phương viết văn đúng như tôi gặp ngoài đời, hiền lành mà tài hoa, trang trọng mà thân mật. Cách trò chuyện của anh thật dí dỏm, tự nhiên, thẳng thắn. Hôm gặp các bạn trẻ ở Sài Gòn, có Huy Bảo, Trần Duy Bảo Khang, Mai Chung Min, Trần Hữu Tùng, Hòa Thanh và nhiều bạn khác, chúng tôi thật vui, không khí ấm áp. Sau đó anh còn ở lại lâu với tôi khi mọi người đã về hết.

Chúng tôi cũng ít nói chuyện văn chương, mà lại chia sẻ nhiều hơn những kỷ niệm thời trước, thời chiến tranh, và như anh nói là chia sẻ chút hương ngày cũ. Tôi nhớ mấy câu thơ của Ngọc Thùy Giang mà anh trích dẫn:

Thưa em mộng cũ bây giờ

Tử sinh còn hết một bờ mi cong

Tôi ngồi bên anh, thấy may mắn, trong cơn mưa của Sài Gòn rào rạt trên mái ngói.

Tôi xin phép các tác giả trích đăng một bài viết của chị Nguyễn Thị Thanh Xuân về Võ Hồng và một bài của Phạm Chu Sa về anh Huỳnh Như Phương, để giới thiệu với các bạn đôi uyên ương nghệ thuật này.

Nguyễn Đức Tùng

Trở lại vườn văn Võ Hồng

(Nguyễn Thị Thanh Xuân)

Đã hơn nửa thế kỷ trôi qua rồi, một ngày thăm lại vườn văn của Võ Hồng, tôi tưởng như mình đang lần theo một hành trình đọc. Cái cô gái tuổi mười lăm, sau khi đọc những Nhánh rong phiêu bạt, Con suối mùa xuân, sung sướng ngắm nhìn chân dung hiền hòa của nhà văn trên bìa tạp chí Văn năm 1974, và người đàn bà tuổi sáu mươi bảy thơ thẩn giở những trang giấy sách úa vàng, bùi ngùi nhớ về hình ảnh một ông già đội mũ len ngồi trên hiên nhà nói cười hiu hắt.

Tôi đã đọc Võ Hồng xưa như một người đọc tự do, mảnh vải tinh khôi thấm hồn nhiên câu chữ. Tôi đang đọc Võ Hồng nay như một người đọc thả mình trong dòng nghĩ, ở đó có cả những quan sát và trải nghiệm cá nhân, cũng như những cầu viện không tránh khỏi của người đi qua trường lớp. Và tôi hình dung Võ Hồng ngồi lặng lẽ lắng nghe tôi nói huyên thuyên mà nheo mắt cười vừa khích lệ, vừa chế giễu.

Võ Hồng là người tìm thấy hạnh phúc trong hoạt động chuyên môn: viết văn và dạy học. Trong bất hạnh của cuộc đời cô lẻ, ông đã được đền bù. Bằng trái tim yêu thương, luôn muốn được tâm tình, chia sẻ, Võ Hồng viết và nói như một con tằm nhả tơ, những kén tơ óng ánh vầng sáng ấm.

Dù tự thấy cuộc đời của mình “vui ít buồn nhiều”, nhưng một cái nhìn lạc quan về nghề viết như Võ Hồng có lẽ là khá hiếm: “Ông nhà văn, ông được ưu đãi nhiều quá. Ông được nói chuyện dịu dàng với người đọc vào một giờ yên tĩnh nhất, trong một khung cảnh êm đềm nhất. Người đó đem trọn tâm hồn ra để nghe ông và ông được chọn nói những điều mà ông cho là thâm thúy”. Nghĩ như vậy, rõ ràng Võ Hồng đã luôn vừa mang tâm thế người đọc vừa tâm thế người viết trong khi đến với văn chương.

Nửa thế kỷ trở lại với ngôi vườn cũ, hương xưa phảng phất, kỷ niệm tràn về, cảm tạ mối thân quen đầy tin cậy đã qua, tôi của hôm nay vẫn tự hỏi: ngoài những âm vọng của quá khứ, còn có điều gì khác trong tôi, như những khám phá mới mẻ, hay là những lý giải kỹ càng về sức hút của trang viết Võ Hồng?

Đọc Võ Hồng xưa, trong tôi có hai lần chấn động. Một là bài thơ Vết thương không lành in trên tạp chí Bách Khoa năm 1962(1). Hai là lời bộc bạch của nhà văn trong lần trả lời phỏng vấn trên tạp chí Văn: “Ước vọng của tôi là có phương tiện đi lang thang khắp các miền quê hương đất nước, từ cánh đồng phù sa sông rạch lên tới vùng sơn cước rừng núi âm u, ngược xuống bãi biển sóng gầm… vai mang máy ảnh, máy ghi âm và túi giắt sổ tay, bút chì bút máy.

Tôi sẽ tìm gặp những ông nông dân già, những ông chài cá lưới tôm già, những ông thợ rừng, những ông thợ đóng cối xay… Tôi sẽ nghe họ kể chuyện làm ăn, những kinh nghiệm làm nghề, những lo âu và hy vọng. Tôi sẽ ghi tiếng nói của họ vào máy ghi âm, nét mặt của họ vào máy ảnh.

Tôi sẽ biên chép, sẽ bổ sung thêm chi tiết… và sau đó sắp đặt lại lời lẽ bố cục cho gọn, cho rõ, cho dễ hiểu. Khi được in ra một loạt những cuốn như Hồi ký của một người thợ rừng, Cuộc đời của một ngư phủ ở Tiên Châu, Phút nói thật của một nông dân miền Hóc Lá… thì ông tưởng tượng xem, độc giả các thế hệ sau sẽ yêu quê hương thiết tha đến chừng mực nào”(2).

Từ ấn tượng xa xưa, tôi nghĩ rằng, Võ Hồng đã chọn đi theo hai tiếng gọi lớn mà đối với ông là sâu sắc nhất: tiếng gọi của quê hương và tiếng gọi của tình yêu.

Võ Hồng đã dựng lại bức tranh con người và sinh hoạt của Tuy Hòa và miền Trung nói chung trong tiếng rì rầm của lịch sử Việt Nam. Có bao nhiêu tác phẩm đã nói đến thời tranh chấp Pháp-Nhật và những cuộc tản cư tao tác ở khúc ruột miền Trung như Hoa bươm bướm?

Về xã hội, cảm thức về tao loạn và biến thiên lịch sử trong văn chương Võ Hồng rất đậm. Ông đau đớn về những phận người trôi giạt, ông đau đáu về những điều biến mất trong cơn gió bụi. Dĩ vãng sống lại, mạnh mẽ hơn bao giờ hết qua truyện ngắn, tiểu thuyết và thơ của Võ Hồng.

Ông muốn kháng cự lại thời gian và thời cuộc bằng đôi mắt chứng nhân và quyền năng chữ nghĩa, vĩnh cửu hóa những điều đã diễn ra trong đời sống của những con người vô danh chất phác, và ông cũng lên tiếng phê phán những xiêu lạc của những con người thị dân trước cơn gió lốc của cuộc sống duy lợi.

Về tự nhiên, trang viết Võ Hồng tràn đầy tinh thần sinh thái(3). Ông quan sát và chiêm nghiệm chúng bằng một nhãn quan trung dung mang triết lý phương Đông(4) có ít nhiều dung hợp với tinh thần duy mỹ của văn hóa Pháp.

Tình yêu trong văn chương Võ Hồng bảng lảng sắc màu platonique, đôi khi có vẻ lạc loài trước xu hướng truyện tình táo bạo của miền Nam thời 1954-1975. Nhưng rõ ràng những tình huống gặp gỡ, quyến luyến của các nhân vật trong truyện của Võ Hồng luôn khởi đi từ một kiếm tìm tri âm. Cái tương giao tinh thần ấy mạnh hơn tất cả. Và họ luôn biết giữ gìn nhau, trao nhau những gì đẹp nhất trong đời, dù lắm khi đau đớn vì dang dở, lìa xa.

Trong suốt hành trình viết văn của mình, Võ Hồng ít khi làm nên sự kiện, nhưng ngay từ khởi điểm, ông đã tìm ra nguồn mạch của riêng mình, đã chảy nhẹ nhàng bền bỉ qua hơn 60 năm, hồn hậu trong ước vọng bày tỏ; thương yêu, trân trọng trong tìm kiếm tương giao.

Đời văn của Võ Hồng nằm trọn trong thời kỳ khói lửa kinh hoàng của đất nước, nhưng có một miền Nam Việt Nam cố gắng duy trì cái nhịp đập tự nhiên đặc thù cho các hoạt động tinh thần. Đời văn Võ Hồng cũng đi qua những cheo leo của số phận, nhưng ông đã tìm ra một nơi chốn để náu mình, an định. Với Võ Hồng, viết văn là một cách thế tồn tại thiết yếu, cả về tinh thần và vật chất.

Tâm thế sáng tạo ấy gắn liền với cốt cách của một trí thức giao hòa trong mình hai nền văn hóa Đông – Tây, với cảm hứng của một người cầm bút luôn giữ được sự cân bằng giữa người nghệ sĩ và nhà giáo dục.

Võ Hồng là người yêu cái đẹp tự nhiên. Ông muốn trang viết của mình lưu vào ký ức chúng ta những cảnh trạng bùi ngùi lam lũ và dạt trôi của đời sống đồng bào, những khuôn mặt người dân quê chất phác một thời. Ông cũng muốn qua chữ nghĩa, phả vào tâm hồn chúng ta cái hương sắc ngọt ngào bảng lảng của những duyên tình phong nhụy.

Tưởng tượng trong tác phẩm Võ Hồng chỉ là chút men, quan sát và trải nghiệm mới là chất bột. Người đọc có thể nhận ra xuyên qua rất nhiều tác phẩm của ông, từ tiểu thuyết cho đến truyện ngắn và đặc biệt là thơ, một nhân vật quen thuộc, mang nhiều đường nét của tác giả. Và có những trải nghiệm được thi hóa, theo nguyên tắc bù trừ.

Ai cũng biết, là đôi khi cái ta tưởng tượng đẹp đẽ và làm ta xúc động hơn là cái ta có trong đời thực. Những gặp gỡ và chuyện trò của các nhân vật trí thức trong trang viết của Võ Hồng cho thấy đã từng có những trí tuệ thông minh, những tâm hồn tinh tế và những phong cách thanh lịch một thời.

Nhẹ nhàng và khiêm cung, cái tôi nhà văn ấy chưa bao giờ vắng mặt trên trang viết của mình. Cái tôi ấy hồi tưởng, vực dậy những ký ức thời thơ dại (Hoài cố nhân, Ngày xưa, Thế giới của Năm Nhiều…), những tháng năm vào đời nhiều xáo trộn lịch sử (Hoa bươm bướm). Quá khứ sống lại, rõ rành sự kiện, nhân dáng, tâm cảm, số phận.

Cái tôi ấy cũng không ngừng lắng nghe cái từng ngày chạm vào mình, trong một vài không gian nhất định (gia đình, nhà trường, Nha Trang), với một nhịp sinh hoạt khá đều đặn, bảng lảng những tương giao dang dở, thảng hoặc, tiếng dội của cơn bão thời đại ùa vào, dường như âm vang đục hơn, bởi cái tổ kén kia vốn nhẹ nhàng óng ả.

Bước ra khỏi vùng tĩnh, vẫn hé lộ cái vọng động của tâm trong luồng gió cuốn, hay là gió lay tấm màn the làm lộ ít nhiều cái khắt khe của một nhà duy mỹ lâu ngày không lặn sâu dưới đáy cuộc đời? (Nhánh rong phiêu bạt, Gió cuốn).

Nghĩ về Võ Hồng, tôi luôn nhớ đến Nguyễn Hiến Lê. Hình như hai người rất gần nhau về quan niệm nghệ thuật và cách thế sống. Họ là những nhà văn có căn cốt văn hóa vững chãi, có lối hành xử nhất quán, luôn khiêm cung(5) và đầy lòng tự trọng. Họ là những trí thức luôn biết cách thu xếp để giữ cho mình cái trong trẻo thuần khiết của văn hóa, giữa một không gian xã hội đầy biến động và áp lực của Việt Nam.

NGUYỄN THỊ THANH XUÂN

Huỳnh Như Phương – Người ‘hoà giải’ cho văn học trước 1975

Vanvn- “Tôi tin rằng nhìn nhận văn học quá khứ một cách công bằng, khách quan sẽ góp phần hòa giải, hòa hợp dân tộc” – GS Huỳnh Như Phương nói.

GS Huỳnh Như Phương là nhà giáo chuyên giảng dạy lý thuyết văn học ở Trường ĐH KHXH&NV – ĐHQG TP.HCM, đồng thời là nhà nghiên cứu, phê bình văn học trước năm 1975. Lúc chưa tới tuổi 20, Huỳnh Như Phương đã có bài đăng trên các tạp chí có khuynh hướng thiên tả lúc đó như Trình Bầy, Đối Diện.

Văn học miền Nam là thành phần hữu cơ của văn học dân tộc

* Thưa ông, được biết thời đại học, hai năm đầu ông học triết ở ĐH Văn khoa Sài Gòn, sau ngày thống nhất ông lại được ra Hà Nội học tiếp về văn học. Ông có cho trường hợp mình là may mắn vì được học ở hai nền giáo dục hoàn toàn khác nhau để bổ sung cho nhau?

– Chúng ta là đồng môn, chắc anh hiểu rõ hoàn cảnh khó khăn những năm tháng đó. Nhiều lớp sinh viên ở ban Triết có bằng cử nhân đã không thể tìm được việc làm. Lớp chúng tôi học dở dang, được chuyển sang ngành văn, phải kéo dài sáu năm ở đại học nhưng vẫn may mắn hơn nhiều người khác không có điều kiện theo đuổi con đường học vấn. Nghĩ đến sự may mắn của mình, nhiều khi tôi cảm thấy có lỗi với một số người cùng thế hệ. Tôi đã thụ hưởng nền giáo dục miền Nam từ tiểu học đến đại học, nền giáo dục xã hội chủ nghĩa bốn năm đại học và bốn năm sau đại học. Không thể nói phần nào quan trọng hơn nhưng nếu mình biết chắt lọc và tiếp thu thì chắc chắn cả hai đều có ích cho nghề nghiệp hiện nay.

* Ông có thể kể lại vài kỷ niệm đáng nhớ về những năm học ĐH Văn khoa Sài Gòn và ĐH Tổng hợp Hà Nội?

– Khuôn khổ trang báo không cho phép tôi nói gì nhiều. Vả chăng, những kỷ niệm đó tôi đã ghi lại trong hai bài viết “Văn Khoa ngày tháng cũ” và “Hà Nội trong sương mù ký ức”, hiện còn lưu giữ trên các trang mạng. Tôi nghĩ rằng đó là những cơ hội cho tôi hiểu sâu hơn hoàn cảnh đã tác động đến con người như thế nào và người ta có khả năng kháng cự lại hoàn cảnh hay không. Đôi khi tôi nghĩ vẩn vơ nếu như đất nước thống nhất sớm hơn hoặc muộn hơn, thân phận của những người trẻ thế hệ chúng tôi sẽ thay đổi ra sao. Và trong cái tình huống cực đoan của lịch sử đất nước ta, con người phải làm gì để giữ được chân dung tinh thần của mình.

Văn học ở miền Nam là một thành phần hữu cơ của văn học dân tộc. Nhìn nhận một cách công bằng, khách quan sẽ góp phần hòa giải, hòa hợp dân tộc.

“Tôi thấy mình phải có trách nhiệm giới thiệu về văn học miền Nam”

* Có phải do có thời gian học ở ĐH Văn khoa Sài Gòn mà trong một số tác phẩm, đề tài khoa học và nhiều bài viết, ông đã đầu tư nghiên cứu về văn học miền Nam trước 1975?

– Thật ra năm 1975 tôi mới vừa 20 tuổi, trước đó có mấy bài đăng báo nhưng đọc và tích lũy tư liệu về văn học chưa được bao nhiêu. Sau này, vì công việc dạy học, tôi thấy mình phải có trách nhiệm sưu tầm, giới thiệu với sinh viên hoạt động văn học ở miền Nam mà tôi luôn quan niệm đó là một thành phần hữu cơ của văn học dân tộc. Cuốn sách đầu tiên tôi biên soạn được xuất bản ngay từ đầu thời đổi mới là một tuyển tập truyện ngắn miền Nam có nhan đề Mùa xuân chim én bay về (NXB Cửu Long, 1986). Từ ấy đến nay tôi có viết một số bài và tham gia hai công trình nghiên cứu tập thể về đề tài này. Điều khiến tôi ngạc nhiên và thú vị nhất là những người khuyến khích và giúp đỡ chúng tôi trong công việc này không chỉ là các nhà văn, nhà nghiên cứu ở miền Nam mà còn có những đồng nghiệp rất nhiệt tâm ở Viện Văn học, ĐH Sư phạm và ĐH Quốc gia Hà Nội. Gần đây tôi lại có niềm vui là sau khi công bố những bài viết về chủ nghĩa hiện sinh, chủ nghĩa cấu trúc và chủ nghĩa Marx ở miền Nam, tôi nhận được phản hồi, góp ý từ những học giả cao niên rất có uy tín.

* Hồi tháng 10 năm ngoái, Hội Nhà văn Việt Nam (VN) đã tổ chức cuộc tọa đàm “Nhận diện văn chương Hà Nội thời tạm chiếm (1947-1954)” với nhìn nhận: “Văn học sử VN còn mắc nợ văn chương Hà Nội vì đã bỏ quên một không gian văn học đầy giá trị…”. Thế còn những tác phẩm giá trị của nhiều nhà văn đô thị miền Nam thời kỳ 1954-1975, Hội Nhà văn VN và Hội Nhà văn TP.HCM (mà ông từng là thành viên ban chấp hành) có thấy mắc món nợ văn chương này không?

– Tôi không phải hội viên Hội Nhà văn VN nên không đủ thẩm quyền trả lời câu hỏi này của anh. Tôi có tham gia ban chấp hành Hội Nhà văn TP.HCM một nhiệm kỳ (2005-2010), người ít, chỉ việc khảo sát, tổng kết hoạt động sáng tác đương thời và tổ chức giao lưu, trao đổi kinh nghiệm đã không đủ thời gian. Tuy nhiên, tôi nghĩ rằng những người thiện chí đều thừa nhận đó là một món nợ, món nợ lớn mà trả thì quá chậm. Tình hình gần đây có vẻ thuận lợi hơn nhưng điều đáng buồn là giới nghiên cứu, phê bình trong nước chưa quan tâm đúng mức đến việc này. Có lẽ cuộc sống bây giờ có quá nhiều nỗi lo, nỗi lo văn học chưa phải là điều bức xúc nhất chăng? Dù sao hiện nay khó ai bác bỏ được sự thật là trong những năm chiến tranh, giới trí thức sáng tạo ở miền Nam đã cho ra đời nhiều tác phẩm mang phẩm cách dân tộc, tinh thần nhân đạo và giá trị nghệ thuật theo hướng cách tân và hiện đại. Tôi luôn tin rằng nhìn nhận văn học quá khứ một cách công bằng, khách quan sẽ góp phần hòa giải, hòa hợp dân tộc và phát huy các nguồn lực tinh thần để bảo vệ, phát triển đất nước.

Chưa bao giờ không gian văn học mở rộng như những ngày này. Lớp nhà văn, nhà phê bình độ tuổi trên dưới 40 hiện nay rất đáng nể.

Phê bình bị chê trách vì không chống đỡ được với óc bè phái

* Trong một giai đoạn mà phê bình văn học có phần vắng lặng, có ý kiến đánh giá phê bình văn học hiện nay chủ yếu là khen ngợi và ve vuốt nhau. Theo ông, nhận xét như thế có quá khe khắt không?

– Không thể chối cãi đó là một phương diện của đời sống phê bình văn học hiện nay. Phê bình bị chê trách vì không chống đỡ được với những cám dỗ của tính vụ lợi, sự đố kỵ, óc bè phái và sự đả kích cá nhân. Những người làm phê bình như chúng tôi chắc chắn là có lỗi rồi nhưng bạn đọc và báo chí cũng có một phần trách nhiệm. Thử hỏi bạn đọc bây giờ có thích đọc phê bình không, báo chí có chịu đăng những bài phê bình đúng nghĩa không? Biết bao nhiêu cuộc hội thảo, tọa đàm đã lên tiếng, đề xuất giải pháp nhưng sao tình hình phê bình vẫn chưa được cải thiện? Có lẽ phải cần thời gian suy nghĩ kỹ hơn, sâu hơn để tìm câu trả lời đích thực về điều này. Mặt khác, cũng không nên đặt trên vai phê bình một sứ mạng quá lớn.

Một thế hệ cây bút mới đang xuất hiện và khẳng định mình không phải chủ yếu bằng những phương tiện và con đường của những lớp nhà văn trước đây: các tạp chí văn nghệ, các giải thưởng văn học, sự tán dương của giới phê bình… Những hồi ứng của bạn đọc chưa bao giờ nhanh nhạy như hiện nay và điều đó làm bộc lộ sự chậm chạp, trễ nải và cả uy tín sút giảm của phê bình chuyên nghiệp. Tất nhiên, thời nào cũng có những cây bút viết sơ lược, sáo mòn về đề tài, bút pháp, chạy theo những vinh hoa phù phiếm. Nhưng thời nào cũng phát hiện được tài năng đích thực. Tôi thấy lớp nhà văn, nhà phê bình độ tuổi trên dưới 40 hiện nay rất đáng nể, tôi tin là họ sẽ làm nên chuyện.

* Xin cám ơn ông về cuộc trao đổi này.

PHẠM CHU SA thực hiện

Comments


© 2024 by Nguyen Duc Tung

bottom of page