top of page

ĐỌC THƠ HOÀNG VŨ THUẬT

  • Writer: ductungducnguyen
    ductungducnguyen
  • Jun 19, 2024
  • 24 min read

ree

Nguyễn Đức Tùng


Có một điều gì đã xong và một điều gì chưa xong trong thơ Hoàng Vũ Thuật, tựa như sự thăng bằng đạt được hôm qua, hôm nay biến mất. Vì vậy, anh trở đi trở lại nhiều lần trước một sự vật, nhìn chúng dưới những góc cạnh khác nhau, làm cho sự thật hiện lên trong những ánh sáng khác, khi cằn cỗi, khi tinh khôi.


anh quay lại khi anh không còn nữa


bước vào nhà và sẽ


gọi tên em


Thơ Hoàng Vũ Thuật thân mật và phóng khoáng, nhiều chất hiện tại. Thơ của những khoảnh khắc. Nhân vật của anh cũng không đứng yên mà chuyển động, các câu chuyện kể lại được giải thích khác nhau. Bên dưới, anh có một nỗi buồn dịu dàng, không phải là thứ sầu muộn chết người, nhưng đủ làm day dứt. Chúng ám ảnh thơ anh từ trang viết này qua trang viết khác, từ lâu, trở thành chiêm nghiệm.


tôi đo ánh sáng mặt trời chiếu


xuống trái đất


bóng tối phủ trảng cát câm


đường đi một đời


tấm tã lót sơ sinh cỗ quan tài dải băng tang


trắng


mảnh vườn mẹ nuôi tôi lớn xanh


rặng tre trước mặt


thân cau trổ quả hoàng hôn


khói thơm lên từng cụm


sợi gàu dai kéo rộng cánh đồng


tôi đo hơi thở người


yêu dấu


bầu ngực đôi chân đôi mắt


chiếc lưỡi


mềm


trên giường ngủ


tôi đo tượng đá hoa cương


đơn chiếc nơi mặt bàn lạnh


bức tĩnh vật đôi mẫu thuốc bình hoa khô


chữ trong sách ô kéo trong ngăn tủ


cuốn lý lịch không số


tôi đo giấc mơ đêm đêm hiện về


nhện vắt dây qua mùa đông khắc khoải


cánh hoa từ nở


đến tàn


từ không


đến có


thì ra mọi thứ


dài


và ngắn


hơn tôi tưởng


Hoàng Vũ Thuật là người biết lắng nghe. Lắng nghe tiếng nói của chính mình, của lịch sử đã mất, tiếng nói của thượng đế, dù anh ít đề cập đến niềm tin tôn giáo. Sự lắng nghe ấy làm nên nguồn cảm hứng. Thơ là phương tiện được chọn để mô tả và truyền đi cảm nghĩ sâu xa nhất, không lời, từ sự lắng nghe ấy: thương tiếc, tình yêu, tan vỡ. Thế giới hỗn loạn. Xứ sở suy tàn. Lòng người điên đảo. Thơ ở đâu?


Rao giảng điều vô bổ


Huyên thuyên thuyết giáo cũ mèm


Ba chân trời


Ba gốc cây


Ba chiếc bóng


Người ta chối bỏ sao anh đắm mê


Cơn nắng giận hờn


Cơn nắng đắng nghét


Phi ngọn roi tê dại lên mặt


Da thịt rộp phồng sần chai


Ướt sũng thân thể


Rao giảng điều vô bổ


Không tín đồ không giáo hữu


Ngôn từ hẫng hụt phù du


Chân trời gốc cây chiếc bóng


Ghép mãi chẳng thành.


(Phù Phiếm)


Thơ đương đại bị xé thành nhiều mảnh vỡ. Nhưng chúng cũng ngày càng suy tưởng, và vì vậy, xa rời cảm xúc nguyên thủy. Tìm cách kết hợp hai thứ ấy là công việc khó khăn. Bài thơ tồn tại trong thời gian, trong sự sắp đặt các nhịp liên tiếp nhau thành chuỗi, ở đó hình ảnh được gieo xuống trở thành ý tưởng và ngược lại. Chỉ khi nào các ý tưởng cũng là các hình ảnh, tự khắc chúng trở thành mô tả trữ tình đối với thế giới.


anh ôm bóng anh hằng đêm


hà hơi lên tóc lên trán hà hơi vào mắt vào môi


hà hơi xuống ngực


hà hơi


bóng biết nói biết đùa bỡn biết tự bảo vệ


đôi khi vượt qua giới hạn


anh yêu bóng anh như yêu người đàn bà


vừa thánh thiện vừa ác quỷ


Ngôn ngữ Hoàng Vũ Thuật trong bài như trên là một thứ ngôn ngữ hậu lãng mạn- siêu thực.


Anh biết thứ ngôn ngữ đã làm em thức tỉnh


Không thể thay bằng cơn mưa chợt đến thường khi


Cái nhìn sắc sảo, phê phán, tinh tế:


Trước nhà thờ Đức Bà Paris


đàn chim không biết sợ hãi


chúng sà xuống hồn nhiên


giữa lòng bàn tay


ăn mẩu bánh mì


hình như không biết tôi đến từ xứ sở mà chim


là đặc sản


ở đó loài chim bị chém ngang tiếng hót


vặt trụi lông


thiêu trên bếp than rừng rực


ở đó chim không có quyền bay vào trời rộng


bơi giữa hồ xanh trong


chim chỉ biết mua vui yến tiệc


Hoàng Vũ Thuật là giọng nói của một nền văn hóa. Đó là văn hóa hồi phục. Là sự phối hợp giữa các giá trị dân gian truyền thống, phong cách cổ điển, và hiện thực nửa sáng nửa tối ở đó anh lớn lên. Hoàng Vũ Thuật là một trong những người cuối cùng của thế hệ có khuynh hướng lãng mạn tiền chiến mà vẫn hiện đại. Một thế hệ “mắc kẹt” trong lịch sử.


Chúng ta mắc kẹt trong bể nước cạn khô


chúng ta sẽ chết cháy


hỡi mùa hè khắc nghiệt


nhiều khi màu da trời đánh lừa như những cú lừa ngoạn mục


phải không không ai trả lời cả nghĩa là chúng ta sẽ chết cháy


lòng điềm nhiên vẫn tin dòng sông sẽ mang mùa xuân về mát rượi


thói quen từ lâu rồi thói quen chịu đựng


nhưng anh không thể đánh lừa em


Một trong những đặc tính của thơ là khả năng mở ra những cánh cửa khác nhau, khả năng mang lại cho người đọc kinh nghiệm khác nhau trong những lần đọc khác. Hoàng Vũ Thuật là người có trí tưởng tượng dồi dào, nặng về mô tả chi tiết, nhưng cũng nghiêng về duy mỹ.


Những câu với phép tu từ:


Mặt hồ


Tấm gương dựng đứng


Ánh sáng đang thở


Anh cũng có những câu giản dị, thẳng thớm:


Anh tin em mỗi ban mai bật thêm nụ biếc


Chữ bật gây ấn tượng cúc áo. Chữ làm thay đổi con người. Chúng thức dậy mỗi ngày, đánh thức chúng ta, nhớ lại đêm hôm trước. Nhớ lại cuộc cãi lộn hay nụ hôn cuối hành lang. Ngôn ngữ dẫn chúng ta đi qua ngã rẽ đời sống, của ký ức, giữ lại cảm xúc nguyên thủy, sờ mó, va chạm, tiếng gầm rú của xe cứu hỏa, bàn chân trên cát. Một bài thơ trữ tình thành công bao giờ cũng có khả năng mang bạn trở lại với hai thứ: ký ức ban đầu và ký ức cuối cùng.


Nỗi buồn đau anh từng thấu rõ


Nhưng vì sao phượng đỏ sang hè?


Em chợt đến giữa ngày đông giá


Anh nhận ra màu lửa ấy nhiều khi


Nhiều năm sau anh sẽ viết khác, mới hơn:


Chỉ tiếng khóc vỡ òa tồn tại


Đứa bé


Rời bụng mẹ bước ra ngoài


Như chiếc lá khan buồn mất ngủ


Trên nhành cây cạn kiệt thân hình


Ta ngù ngờ u mê ương dại


Thế giới là ai


Một bài thơ dừng lại ở giác quan và cảm xúc, vừa tìm cách vượt qua chúng, mang người đọc đi xa hơn, phía sau cánh cửa, đi tìm ý nghĩa của tiếng nói. Nhà thơ T. S. Eliot từng viết: “Thơ không phải là sự buông thả của cảm xúc, nhưng là sự vượt thoát khỏi chúng; nó không phải biểu hiện của tính cách, nhưng là sự vượt thoát khỏi tính cách”. Khuynh hướng gần đây của Hoàng Vũ Thuật là vượt qua xúc cảm của mình. Giữa những người cùng thế hệ, anh là người đi từ cái chung trở về với đời sống cá nhân. Nhưng sự riêng tư cá nhân đó không thuần túy là riêng tư, đó là cái riêng tư gặp ở mỗi người, cái riêng- chung. Anh cô đơn nhưng không lạc lõng, đứng một mình nhưng không sợ hãi như kẻ lạc đường.


Tại sao


Tại sao


Tại sao


Hoa không được khoác cho mình chiếc áo than


Dưới trận mưa bom


Từ những cái đầu bạo cuồng rải xuống


Hoa bật dậy


Tại sao tại sao


Kẻ mộng du dò từng bước một


Những bóng ma tự vuốt lấy mặt mình


Tiếng khóc vỡ trên cát


Nước mắt thấm trên cát


Không đủ sức hồi sinh làn da non


Tại sao


Tại sao


Tại sao


Hoa không được quyền đen


Anh không được quyền yêu em tận cuối con đường


Hoàng Vũ Thuật không phải là nhà thơ tâm linh, nhưng cảm giác hư vô bàng bạc trong thơ anh. Cái nhìn vừa ngoại cảnh, vừa nội tâm. Thế giới của anh là sự tương tác giữa bên trong và bên ngoài, giữa các sự vật trong giao thoa quá khứ và hiện tại. Đời sống thật không dễ dàng, anh đã đi qua chiến tranh, những năm khó khăn, nhưng hòa bình còn khó khăn hơn. Hoàng Vũ Thuật không đi tìm giải thoát. Anh chấp nhận cuộc đời như chính nó, trở đi trở lại với sự mất mát và nỗi buồn của mình, tìm kiếm ở đó lòng tin. Anh là một nhà thơ của lòng tin và, ngược lại, của sự truy vấn đối với nó.


Mắt trân trân ngó lên trần nhà


Trần nhà màu đen


Con thằn lằn tặc lưỡi ba tiếng


Tôi quay sang trái


Đen và đen và đen


Tôi quay sang phải


Đen và đen và đen


Nhận thức là điểm mạnh trong thơ Hoàng Vũ Thuật. Khi ta nhận thức một thế giới không có nghĩa ta ôm chầm lấy nó. Đối với Hoàng Vũ Thuật, làm thơ là phương thức sống. Nhà thơ chấp nhận cái không thể chấp nhận được. Sự bao dung, tính rộng lượng trong thơ anh làm cho ngôn ngữ trở thành căn nhà ấm áp. Cảm giác của tôi khi đọc anh là nhìn thấy một kẻ thường xuyên tìm đường, luôn luôn đi giữa thương tiếc và hạnh phúc hiện tại. Anh đến đây để nói với chúng ta về tình yêu ấy, sự cô đơn trống trải, nhận thức, tha thứ. Cách duy nhất để đi qua cuộc đời là đi qua hết buồn vui của nó, chân thành, mẫn cảm, giản dị. Nhiều bài thơ của anh thật buồn, buồn như Chiều mưa, Bếp lửa, Người bạn.


Giã từ mưa lũ miền trung


Lạ thay đất đá nở bùng lau bay


Thiên nhiên trong trẻo phô bày


Miên man gió nắng lấp lay bốn bề


Người đi, đi mãi chưa về


Ngàn lau xào xạc nói gì hỡi lau


Trắng từ xưa tới mai sau


Thời gian không tuổi nên lau không già


Núi ngồi, núi đứng gần xa


Núi con, núi cháu, núi bà, núi ông


Qua trảng bom, lại trảng bom


Diết da màu trắng không mòn người ơi


Cái màu trắng tựa mây trôi


Bồng bềnh trên đất cuối thời chiến tranh


Ở đâu đồng bãi biếc thanh


Ở đâu ngọn khói chiều xanh hỡi chiều


Đâu con đường của tình yêu


Tím màu hoa tím rất nhiều… là đâu?


Mà đây lau nối mùa lau


Ứa từ sông thấp núi cao chẳng ngừng


Cầm cành lau trắng rưng rưng


Nhớ con sông lạ, cánh rừng chưa quen


Bao người xuôi ngược không tên


Dấu chân như nấm mọc lên tới giờ


Để thành lau trắng ngẩn ngơ


Ngày đêm óng ánh xa mờ hoàng hôn


(Lau Trắng)


Một bài lục bát hay, xúc động. Anh viết khi vào Nam, sau cuộc chiến tranh.


Ngày càng nhiều nhà thơ quan tâm đến thiên nhiên, hoàn cảnh sống, mối quan hệ giữa con người và cỏ cây muông thú. Giữa những người ấy, Hoàng Vũ Thuật là tiếng nói đặc biệt. Anh là người quan sát, vừa như một nhà thơ trữ tình vừa như một người ghi chép các biến đổi thời tiết, sự phá hủy môi trường. Mối quan tâm của anh là của một người sống gần với thiên nhiên, trong lòng nó, chịu ảnh hưởng khí hậu ở đó. Cái nhìn của anh không quá ảm đạm, không bi quan. Anh cũng không lý tưởng hóa thiên nhiên như các nhà thơ lãng mạn đầu thế kỷ hai mươi. Anh quan tâm nhiều hơn đến liên kết giữa đời sống nội tâm và sự vận động của hoàn cảnh. Sự cảnh tỉnh có mặt ở nhiều bài thơ.


Bông hoa xấu xí đặt trong chiếc bình đêm


thứ nghệ thuật sau cùng tôi trau chuốt


thưa ngài chủ nhân của bóng tối


vệt sẹo che chắn không ai có thể nghi ngờ


với nỗi đau thắt nút


khoảng trống mênh mông càng mênh mông


bầu sương bi kịch Hăm Lét


tôi hình dung gương mặt thanh thản người đàn bà


cuộn trong tấm áo choàng đen thoáng hiện đôi chân trần


cánh hoa đỏ rũ rượi đính lên tường lặng thinh


hơi thở lóng xương khô đáy huyệt


mạng nhện đã tỏa hình rễ cây


lạnh buốt


tiếp sức cùng ánh chớp thanh gươm


tôi nói với giọng trầm của núi


đứng thẳng bằng sự độ lượng


người ấy là ai


nhìn mơ hồ mà không thể hỏi thưa ngài


để mỗi khi âm thầm nhớ


nàng hiện.


(Bi Kịch Hăm Lét)


Hạnh phúc trong thơ Hoàng Vũ Thuật là một tấm gương phản chiếu ước mơ. Anh có khả năng nói về những điều làm ta kinh ngạc mà vẫn giữ giọng dịu dàng. Tôi không thấy anh lớn tiếng bao giờ. Đôi khi quá buồn, anh cũng hát, nhưng đó là bài hát an ủi. Những người quen với cách nói trực tiếp, ầm ĩ, khô khốc, sẽ khó nhận ra tiếng nói của họ trong thơ anh. Hoàng Vũ Thuật chứng kiến nhiều mất mát, nhưng chất giọng vẫn thế, trầm, tư lự, dí dỏm. Trong nghệ thuật, sự hòa nhã vừa là ưu điểm vừa là khuyết điểm.


Chiều nay em quay nghiêng làm chi


Cái dáng ngôi tháp cổ


Mái tóc hay vầng mây quá khứ nghìn xưa không tuổi lại bay về


Tôi đã quên mình thu mình từ lâu giống con ốc sên trong rừng hoang mệt mỏi


Không muốn sống kiếp người trầm luân xô đẩy


Tôi cạn kiệt cơn mê


Cạn kiệt những giấc mơ cạn kiệt


Đời chật hệt căn nhà bộn bề trăm thứ tiện nghi


Tôi tự ném mình qua cửa sổ


Như quả chanh vắt


Khô


(Tháp Nghiêng, trích)


Một bài thơ hay đánh thức trong chúng ta ngọn lửa buổi đầu đời, sự hiếu kỳ, cái đẹp hồn nhiên. Thơ mang chúng ta trở lại với tuổi thơ không còn nữa, một xứ sở thanh bình ngay trong chiến tranh, cái đẹp chưa bị nền văn hóa thực dụng thời nay phá hủy. Thơ Hoàng Vũ Thuật làm mới lại một hiện thực đã có, đã mất, ngày ngày tạo lập. Anh cũng có cách nói duyên dáng, kịch tính:


bạn bè tôi vơi đi gần hết


viết


làm ăn


bới đào


lừa đảo


cầu may đúng ngày chín tháng chín năm chín


giữa các phương trời tức ngực


đã có nhiều cuộc


cãi lộn mắng chửi khước từ


vô duyên


về cuộc đời này vốn đã


có nhiều tiếng khóc không thành tiếng


rượt đuổi nhau trận lốc thân xác


nhoáng


nhoàng


sau lưng


tưng tửng đùi non


Ngôn ngữ của chúng ta không dừng lại. Các câu văn ngày một trở nên phức tạp. Con người ngày một thông minh hơn khi sử dụng ngôn ngữ. Các chữ thường xuyên được trao cho ý nghĩa mới. Thế thì công việc của nhà thơ ngày một khó khăn hơn chăng? Điều đó chỉ đúng với những nhà thơ không sống cùng với thời đại của mình. Như một người có trái tim đập cùng nhịp với đất nước, anh tìm thấy sự diễn đạt trong thơ và câu chuyện đương thời, và vì vậy người đọc dễ tìm thấy tiếng nói của họ ở nhà thơ ấy.


Không ngọn gió nào như gió ở đây


Bảy mươi tư cuộc đời bảy mươi tư kiểu gió


Gió ngầm gió nổi gió cuốn chiếu gió ngang dọc


Gió trầm hùng gió quả cảm gió kiên trung gió bền chặt


Gió chủ quyền


Gió xoáy óc


Gió đòi nợ gió giữ nhà


Gió giành lại đất


(Hoàng Sa)


Thơ anh có những phút trầm tư. Sự im lặng tạo ra nhiều diễn dịch khác nhau đối với thế giới. Sự chú ý của anh đối với cuộc đời thật chạm tới hai thái cực, cái hiểu biết và cái không hiểu biết. Giữ được sự thăng bằng giữa hai điều này, tôi nghĩ, là một trong những bí mật lớn nhất của các nhà thơ. Thực ra không có một bài thơ nào là hoàn toàn im lặng. Vào một lúc nào đó, trong một giờ khắc bất an, giữa các cuộc chiến tranh, sự im lặng bắt đầu lên tiếng. Những bài thơ xuất sắc giữ chặt sự im lặng ấy, nén chúng lại như những khoảng tối, chờ đợi.


Thiên nhiên công bằng đối với con người, nó ban tặng cho chúng ta tình yêu lớn rộng, nhưng mỗi người nhận được khác nhau tùy cách họ chọn lựa. Thơ tự do xuất hiện khi người làm thơ đứng lùi lại, nhường cho chữ. Chữ có đời sống riêng của chúng, vượt ra ngoài ý định của người viết, trở thành ẩn dụ của thời đại, sự biểu hiện của vô thức, dự báo. Điều đó không có nghĩa là trong thơ tự do, âm nhạc không quan trọng. Trái lại đó là một âm nhạc khó khăn, chính nhà thơ phải tự tìm lấy khuôn mẫu của mình. Trong thơ Hoàng Vũ Thuật, có một niềm thất vọng khôn nguôi đối với hiện thực, nỗi cô đơn tận cùng, nhưng đằng sau những tâm trạng ấy vẫn chiếu sáng một lương tâm tỉnh thức, các câu hỏi về văn hóa, sự trầm tư về các giá trị dân tộc. Thay vì than khóc những căn cước rời bỏ chúng ta, về thiên nhiên nguyên vẹn bị đánh cắp, nhà thơ đương đại phát triển truyền thống khác, tìm cách chiếu rọi một cách ý thức vào mọi góc cạnh của nhầm lẫn, nâng cao thái độ phê phán của người đọc và nhờ thế, một cách trực tiếp, kêu gọi sự phê phán ấy. Thơ anh có nhiều giai thoại, những câu chuyện kể, chúng được kể lại một cách dễ dàng, tự nhiên. Ngôn ngữ ấy mới, mà tâm hồn là truyền thống.


Dáng chị thanh thanh


ánh mắt quỳ xuống cỏ dại


đám rau cải thánh thót giọt mồ hôi rơi đêm khuya khoắt nồng chát


cuộc người giống mảnh vườn


mảnh vườn là thế giới được mất trong cuộc đời kiếm tìm hạnh phúc


mảnh vườn chiếc đu quay


mùa xuân líu ríu hoa vàng mùa hạ hoa muống li ti từng cụm trắng


chị nhặt chưa hết lá mùa thu


đông đã tới


Trong bài tiểu luận “Sự tối tăm khó hiểu của nhà thơ”, “The obscurity of the poet”, Randall Jarrell, nhà thơ và nhà phê bình nổi tiếng, nhấn mạnh đến tính chất khó hiểu của một nhà thơ hiện đại: thế giới hôm nay không phải là bất khả đối với các nhà thơ, mà là đối với thơ ca, và các nhà thơ có thể sử dụng sự khó khăn trở ngại của nó, và như vậy thơ hay vẫn được viết mỗi ngày. Điều đó đúng cho các nhà thơ Việt Nam bây giờ. Hình ảnh của anh:


đen và đen và đen


tấm ra trải giường điệp điệp


không màu


còn tôi


màu gì


con thằn lằn bò quanh chờ điều gì đấy


Sự liên kết giữa thằn lằn và đêm chưa rõ lắm. Nhưng ở những bài khác, không dụng ý, anh lại bộc lộ tư duy hình ảnh sâu hơn, deep image, cay đắng, thi vị:


đi trọn một năm vẫn không


ra khỏi vùng ám tượng


lưỡi hái thần chết


đốn ngã linh hồn


đố kỵ mờ xa gương mặt


chữ nghĩa đánh bóng mạ kền


bày bán cùng


hoa


thử bóc từng cánh áo


đến tận ruột mà xác xơ hương


Tôi nghĩ thơ cần những khoảng trống, cái lặng lẽ, cái giản dị, cái mơ hồ rộng rãi. Sự giản dị trong thơ Hoàng Vũ Thuật vừa là sự giản dị chất phác (simplicity), vừa là sự giản dị hóa (simplification). Trong một số bài thơ không nhiều của anh, tính chất thiêng liêng, bí mật, trở đi trở lại. Đó là chất xúc cảm cá nhân, chân thành.


Sự chân thành của một người viết và tài hoa của anh ta là một mối quan hệ phức tạp. Thơ không quan tâm lắm đến xúc cảm của tác giả, nhưng quan tâm nhiều hơn đến xúc cảm của người đọc. Chọn lựa giữa việc quan sát một thế giới bên ngoài và quan sát chính đời sống bên trong không phải là một chọn lựa dễ dàng, nhưng các nhà thơ cần ý thức về điều ấy. Cũng như vậy, đối với khoảng cách giữa nhà thơ và đời sống, có những người đứng quá xa, có người đến quá gần. Hoàng Vũ Thuật có lẽ là trường hợp thứ hai. Tôi nhìn thấy ở đó sự xúc động, nhưng tôi cần một điều gì khác nữa, sự mô tả đôi khi lạnh lùng hay châm biếm, đối với một thực tại tan vỡ, một nền văn hóa băng hoại, sự đề kháng trước cái xấu, sự sai lầm.


Ở thơ Hoàng Vũ Thuật, sự phẫn nộ của lương tâm và ý thức công dân là kín đáo, mặc dù chúng có mặt. Ngược lại, tình yêu thuần khiết của anh đối với con người, sự bao dung, lòng thương xót, tạo ra một khí quyển gần giống với lãng mạn cổ điển, nhưng vẫn tươi tắn đầy sức sống. Đó là lý do vì sao anh đến gần với chủ nghĩa siêu thực, nhưng không mấy khi vượt qua các ranh giới thực tại. Ngôn ngữ của anh có chất văn xuôi hay gặp trong trường ca hoặc thơ xuôi:


Ta bên nhau hai ngọn đèn sáng tối


mùa thay lá cũng nói về khoảnh khắc trong rừng cây khi hạ về chín mẫy


hẹn nhau một đời để chờ một giờ


năm 2077 sẽ đến


đường ranh giới có những khoảng mơ hồ đóng băng


Quan điểm lịch sử, sự quan sát thế giới và tình yêu tạo nên các áp lực thơ ca. Áp lực ấy không sinh ra phong cách hài hước, châm biếm, mà chuyển thành sự cảnh giác, sự lên tiếng báo động, sự phán xét. Nhân đây tôi cần nhấn mạnh rằng chủ nghĩa hậu hiện đại chứa trong nó sự phán xét triệt để đối với hiện tại. Đó là một tính chất cốt lõi của chủ nghĩa hậu hiện đại mà các nhà phê bình và các nhà thơ nên chú ý.


ánh nắng ló từ khuôn ngực


từ âm thanh tiếng Việt đa sắc


từ vầng trán đóng đinh bật máu môi anh


đó là ảo ảnh phía sau hiện thực


giờ thì anh trồng thêm gốc cây


thuộc loài bạch dương chờ đông sang phủ tuyết


nào có gì ổn định


Tính tự sự mang lại sự sống động trong cái nhìn đối với cuộc đời, nhưng một khi chúng vận động nhanh quá, bài thơ lạc lối. Chọn lựa giữa cách nói dàn trải như nhiều nhà thơ đương đại, và sự tiết kiệm chữ của các nhà thơ cổ điển, bao giờ cũng cần thiết. Tôi biết anh chọn lựa kỹ. Nhưng sự thống khổ của con người vẫn là một trong những quan tâm lớn của Hoàng Vũ Thuật. Để chống lại nó, anh không than khóc, không kêu gọi, như nhiều nhà thơ khác. Nhà thơ vừa phải tự mình làm người làm chứng vừa là người lên tiếng tố cáo. Họ tố cáo điều gì? Sự dối trá.


Tất cả chúng ta


đã bị dẫn vào hẻm cụt từ lúc chưa sinh


đêm nay không trăng


chúng ta lấy làm hoan hỉ ôm nhau trong bốn bức tường


một ngôi nhà ánh đèn vừa đủ cho lối đi


sao khỏi va vào nhau không nhầm lẫn lần đầu gặp


chán ngán chuyện ô uế hàng ngày diễn ra trên tờ báo to


đứa trẻ vừa bị kẻ hãm hiếp nơi ngã ba thành phố


muốn đi tìm lại cái bản mặt thật mình


cho ngày mai kịp đến với cõi thiền ngôi chùa cổ


những viên ngói mở mắt nhìn


đêm rơi từng mảng bồ hóng


chúng ta không thoát khỏi sự lừa phỉnh chặng cuối


như cốc rượu làm vặn vẹo ý nghĩ


hớp từng ngụm khí trời


ám ảnh về cơn mê


cái thẻ bài nhà tu hành nói với tôi


anh là anh không là ai khác


chính anh đã làm nên cuộc sống của mình


còn bạn thì sao


hỡi người bên kia nửa trái đất


bạn học được gì khi sự xảo trá đang ngự trị


lên mỗi sợi tóc trắng chúng ta.


(Sự Xảo Trá Đang Ngự Trị Lên Mỗi Sợi tóc Trắng- Thân tặng nhà văn Nam Dao N.M. Hùng)


Thơ anh chưa hẳn là thơ thế sự. Sự chú ý của thi sĩ đối với cuộc đời chạm tới hai thái cực, ngôn ngữ trữ tình và sự im lặng. Thực ra không có một bài thơ nào là hoàn toàn im lặng. Vào một lúc nào đó, trong một giờ khắc bất an, giữa các cuộc chiến tranh, sự im lặng bắt đầu lên tiếng. Những bài thơ xuất sắc của anh giữ chặt sự im lặng ấy, nén chúng lại như những khoảng tối, chờ đợi. Chúng cần được chiếu sáng và sẽ chiếu sáng. Chữ có đời sống riêng của chúng, vượt ra ngoài những ý định của người viết, trở thành thứ ẩn dụ của thời đại, sự biểu hiện của vô thức, dự báo. Điều đó không có nghĩa là trong thơ tự do, âm nhạc không quan trọng. Trái lại đó là một âm nhạc khó khăn, chính nhà thơ phải tự tìm lấy những khuôn mẫu của mình.


Có nhiều cách để đọc một bài thơ. Một bài thơ hay là một ngôn ngữ tự nhận thức và nhận thức về sự vật chung quanh. Thơ bao giờ cũng được xem là một hình thức tổ chức các ý tưởng thông qua âm nhạc. Nếu thế thì những bài thơ tự do của Hoàng Vũ Thuật, trong những trường hợp thành công, thể hiện được điều ấy. Bài nào cũng có một ý tưởng chủ đạo, và tuân thủ nguyên tắc về âm nhạc, sự nối kết giữa các bài thơ của anh khá rõ. Khi bạn đọc lớn một bài thơ của anh, các câu thơ vang dội trở lại vì chúng có một âm nhạc nền.


Mặc dù thơ có nhiều yếu tố thời cuộc, ở đó vẫn có sự chuyển hóa của một con người. Anh giữ lại cho riêng mình những bí mật riêng tư nào đó, sự lãng quên bất thường, bởi vậy trong thơ dường như có một lời kêu gọi mở rộng đối thoại, giữa các xung đột.


Ông đã vẽ trang trọng và


Mực thước


Chằng chịt đường gân thớ thịt căng phồng


Lửa đèn tắt sáng nụ cười trên môi


Thời sủng ái


Cái thời


Trên gương mặt ấy


Chân lý đường cong


Cái nhíu mày


Đủ cho người ta đi thụt lùi ra cửa


(Xuân Sách)


Trong thơ anh, nơi chốn là ẩn dụ, hoàn cảnh xã hội là bằng chứng, và nhà thơ là người làm chứng. Bài thơ hay giúp người đọc sống tự do hơn những khoảnh khắc của đời mình. Làm thế nào để chúng ta có thể sống tự do trong hoàn cảnh khắc nghiệt khi đứng trước sự thật? Thơ không phải là các liều thuốc chữa bệnh, không phải là bản chỉ dẫn hay câu trả lời. Thơ sinh ra từ nguồn suối của đời sống, nơi một người biết lắng nghe có thể kể lại câu chuyện của người khác, của một cộng đồng hay một dân tộc. Tất cả chúng ta đều từng thương tiếc một điều gì đó. Tất cả chúng ta bị nó đánh bại. Nhưng vào giây phút của tan vỡ, gãy đổ, bạn tìm lại chính mình.


Tôi đã xa


ngẩn ngơ chiều Chương Đức


mong nhìn người đẹp ngày xưa


cánh cò làng quê bay vòng quanh Cửu Đỉnh


núi muôn nhà hợp lại dải Trường Sơn


tôi đã xa cả niềm nhớ nhung


ngày mỗi ngày lớn dậy


như cây bồ đề vụt cao trong những ngôi chùa cổ


như cơn mưa nơi ấy


kéo dài dầm dã tới nơi đây


Hình thức của thơ chính ra là sự triển nở của nội dung. Trong những câu chuyện kể của anh, không phải là những bài học giai thoại, mà là những đốm lửa của nhận thức. Thơ ấy cố rũ bỏ những buồn rầu, gạt qua một bên nước mắt nhân gian, nói về một điều gì khác nhưng cuối cùng chúng cũng quay lại. Đôi khi giữa những bài thơ viết nhân dịp này dịp nọ, anh có những bài trữ tình lạ như tấm gương phản chiếu tâm hồn mình.


Tiếng cu gù bong bóng nổi mưa thu


Chum nước gáo dừa mẹ về lui cơn khát


Chó vu vơ sủa bóng mình trên vách


Nỗi buồn tựa cửa ngóng chờ ai


Thơ anh cũng hướng về những vấn nạn xã hội. Anh viết những câu dài và ngắn khác nhau, thay đổi cấu trúc của một bài thơ, mở rộng chúng. Khuynh hướng mở rộng mạnh hơn khuynh hướng cô độc. Những câu giữ được tính liên tục, trừ đôi khi sự phân vân lưỡng lự, những khoảng trống mà anh để lại như một người đi gấp vượt qua các chi tiết dưới chân, điều ấy làm anh gần hơn với các nhà thơ đương đại khác. Một số bài thơ của anh là những thông điệp. Như thế Hoàng Vũ Thuật vừa là người quan tâm đến ý nghĩa của bài thơ, vừa là người say đắm vẻ đẹp ngôn ngữ thuần khiết.


năm mươi người nhiễm dịch corona tàn phá


một trăm bảy mươi


năm nghìn


con số cứ tăng dần như nước triều dâng


như nỗi buồn của tôi kéo dài


những chuyến hàng từ miền Trung


những chuyến hàng miền Bắc


những chuyến hàng nối nhau không người


trận đánh mạnh hơn Sát Thát


tôi sẽ trở lại Sài Gòn bên bạn với ly cà phê


lóng lánh đen


như đôi mắt người mãi dõi theo tôi


Những bài thơ thành công là sự kết hợp giữa tính trữ tình được tăng cường và một hình thức thơ tự do được khai triển linh động, gần với vần điệu. Trong thực tế điều làm cho bài thơ của anh chuyển động, lay động người đọc, là điều anh muốn nói nhưng không nói ra, hoặc không thể nói ra được. Cấu trúc xã hội của nhóm độc giả của riêng một nhà thơ là bối cảnh sáng tạo của nhà thơ ấy. Hiện nay, khi các tương tác xã hội ngày càng tăng, nhất là ở những người sử dụng mạng xã hội như Hoàng Vũ Thuật, tác động của người đọc đối với nhà thơ là rõ ràng. Các nhà thơ không nhất thiết phải chịu ảnh hưởng của độc giả một cách trực tiếp, ví dụ sửa các bài thơ theo ý họ, nhưng một cách vô thức tương tác ấy là có thật. Trong khi trường phái “phê bình mới” chú ý đến văn bản, và loại trừ sự tiếp nhận của độc giả, thì “phê bình tiếp nhận” hiện nay quan trọng hóa sự tiếp nhận ấy. Thực ra không một nhà thơ nào không giữ gìn sự độc lập của mình, nhưng cũng không có ai hoàn toàn không chịu ảnh hưởng của độc giả. Thơ Hoàng Vũ Thuật bày tỏ sự đồng cảm, chia sẻ những tổn thương của con người. Đôi khi thơ anh chạm tới được cõi vô thức, và trở lại với người đọc mang theo những thông điệp bí ẩn.


Nằm dưới kia


Một ông vua một hoàng hậu một người hầu


Một thanh gươm một tuấn mã một mê nón


Một lệnh truyền một trống giục một lời van


Nằm dưới kia


Một hộp sọ một ống xương chân một đốt lóng tay


Một trung thực một đớn hèn một điên loạn


Một ngọn lửa một đêm tối một chiều tà


Một vận hạn một thức thời một nguyền rủa


Nằm dưới kia


Tất cả dưới kia


Không tan chảy không đông đặc không biến hoá


Không lắng xuống không đầy lên


Hợp duyềnh bể máu


Trầm mặc thành quách


Câm lặng


Lên tiếng


Câm lặng


Bên ngách tường


Xoáy


Chùm hoa mần trầu.


Đôi khi anh trở thành nhân chứng của thời đại mình. Trong cả hai trường hợp ấy, nếu làm được, đó là sự thành công. Hoàng Vũ Thuật đọc nhiều, chọn tương tác với độc giả, làm thơ nhiều gần như mỗi ngày, với sức viết không mệt mỏi. Sự cô đơn, sự tìm kiếm, thường có mặt đằng sau bài thơ. Có một nỗi trống rỗng trong tâm hồn, một vắng lặng đến nghẹt thở. Không phải khi nào Hoàng Vũ Thuật cũng đi đến tận cùng điều ấy, sự cô đơn ấy, nỗi vắng lặng ấy của anh, và có lúc bài thơ bị bỏ lại giữa chừng, như những bắt đầu không được kết thúc, ngôn ngữ không có sức nặng, trôi dạt đi. Nhưng trong những trường hợp khác, khi anh đi hết con đường của mình, vượt qua những đau khổ và cô đơn riêng tư, từ bóng tối kỳ lạ của anh, ngôn ngữ bắt đầu phát sáng cuối đường. Anh viết từ một thành phố bị tan nát trong chiến tranh, một thành phố mà tôi nghĩ là ngày xưa rất đẹp, gần như thiên đường đã mất, biểu tượng của thiên đường ấy. Lời thơ của anh dịu dàng, đôi khi quá nhiều cảm xúc, nhưng hầu hết chừng mực. Khi tôi ngồi uống cà phê với anh gần nhà thờ nổi tiếng, công trình còn sót lại cuối cùng sau chiến tranh của Đồng Hới, hắt bóng lên nền trời, trước mặt là phía vịnh biển bao la, tôi thấy mình hiểu hơn thơ Hoàng Vũ Thuật. Anh nói về nỗi khó khăn của người nghệ sĩ có ý thức tự do, về những ràng buộc nhân thế, thường xuyên đi tới vùng ranh giới giữa quá khứ và hiện tại, giữa nỗi thất vọng về con người và lòng yêu cuộc sống, thường xuyên trở lại, kiên nhẫn, nguyên tắc, và anh gặp giữa vùng đất khó khăn ấy những bông hoa đẹp, thứ ánh sáng kỳ ảo sẽ chiếu rọi trang giấy của anh.


cửa sổ mở ra gặp một mùi hương


gặp bầu trời màu mây biên giới


thu chợt đến mùa thu chờ đợi


trang sách đọc dở dang để lại trên bàn


tiếng nhạc ngựa lanh canh ngoài phố


Nhưng đồng thời thơ ấy vẫn là của con người Việt Nam, của những giá trị phổ biến. Có một cảm giác thiêng liêng và lòng biết ơn cuộc đời, làm rung chuyển bài thơ của anh. Niềm tin của anh về sự cứu rỗi cái đẹp, của thơ ca nghệ thuật là có thật. Đọc thơ Hoàng Vũ Thuật tôi có ấn tượng rằng ở trong anh bao giờ cũng tồn tại một hiện thực khác, không thể nhìn thấy được, chỉ thi sĩ mới có thể biết đường tới đó. Anh quan sát thế giới bên ngoài, yêu mến cái hoang dã, đất trời và vịnh biển trong vắt, xanh lơ, những đau thương, sự chia rẽ, sự hàn gắn được và sự không thể nào hàn gắn được. Anh là đứa con của những:


Của Cồn Chùa, Ðồng Miệu, Bãi Soi


Trong mỗi ngọn đèn đêm đêm làng thức


Có ngọn đèn thao thiết tận đời tôi


Đôi khi anh như một đứa trẻ, tung tăng hồn nhiên đi qua cõi người, đôi khi anh là ông già chậm rãi với chiêm nghiệm riêng tư, nén lại. Những dòng này là suy tư của anh, trong một bút pháp có tính siêu thực:


Hãy khoá trái cửa và tan thành khói sương


Chợt nhớ cơn mưa bóng mây


Đứng lên rồi ngồi xuống


Cái thùng người rỗng không


Ý nghĩ của bàn chân bước qua gạch vỡ


Thơ hiện đại đi tìm cái tôi trong cuộc đời. Việc đó thể hiện bằng cách tân ngôn ngữ, kết hợp nghệ thuật và khoa học, tin tưởng vào chân lý. Nhưng ở Hoàng Vũ Thuật, sự huyền ảo siêu thực vẫn đôi khi bất chợt lóe sáng trên các câu thơ, như từ trong vô thức.


Cùng với các nhà thơ đương thời khác, Hoàng Vũ Thuật mang lại sự mới mẻ trong cách đọc và cách viết, thái độ chống bảo thủ văn hóa, tìm cách phá vỡ định kiến thẩm mỹ. Anh cũng là người quan tâm đến nhiều vấn đề: môi trường sinh thái, các sự kiện, thời cuộc. Mặt khác, thơ hiện nay ngày càng tìm cách phá vỡ tương quan giữa ngôn ngữ và sự vật, làm thay đổi cách nhìn và cách nói. Hoàng Vũ Thuật không phải là nhà thơ nổi loạn, nhưng anh là người cách tân, với ý chí làm mới thường trực. Thực ra không có một sự làm mới nghệ thuật nào có thể tách rời khỏi nền tảng bên dưới của nó: ý thức xã hội và phán xét lịch sử, tầm nhìn triết học và lòng yêu quê hương. Những câu thơ của anh, khi chúng bắt nguồn từ cõi ấy, rung lên được nỗi thương nhớ và lòng ao ước vốn có sẵn trong mỗi con người chúng ta.


Nguyễn Đức Tùng


(Đọc Thơ- Bài 40)

Comments


© 2024 by Nguyen Duc Tung

bottom of page